Bản án số 365/2025/DS-PT ngày 18/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 365/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 365/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 365/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 365/2025/DS-PT ngày 18/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 365/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” giữa Nguyễn Thanh N với Lê Duy T1 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
Bản án số: 365/2025/DS-PT
Ngày: 18-6-2025
V/v tranh chấp: “Hợp đồng vay tài
sản”
- -
NHÂN DANH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đỗ Thị Minh Nguyệt.
Các Thẩm phán: Bà Lâm Ngọc Tuyền;
Bà Nguyễn Thị Ánh Phương.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Chí Thành - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Bà Bùi Thị Thanh Bạch - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 09 và 18 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 104/2025/TLPT-DS
ngày 14 tháng 02 năm 2025 về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2024
của Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 728/2025/QĐ-PT ngày
25 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh N, sinh năm 1970;
Địa chỉ: Số C, Tổ A, Khu B, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Phạm Như T, sinh năm
1987 (có mặt);
Địa chỉ: Số B, ấp T, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (theo Hợp đồng ủy
quyền lập ngày 05/4/2024).
2. Bị đơn:
2.1. Ông Lê Duy T1, sinh năm 1982 (có mặt);
Địa chỉ: Số C đường B, Khu phố A, Phường C, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T1: Luật sư Từ Tiến Đ –
Văn phòng L, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).
2
Địa chỉ: D, Tổ B, Khu D, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
2.2. Bà Nguyễn Thanh T2, sinh năm 1987;
Địa chỉ: Số C, ấp B, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Số C đường B, Khu phố A, Phường C, thị xã C, tỉnh Tiền
Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Thanh T2: Ông Lê Duy T1, sinh năm
1982 (có mặt);
Địa chỉ: Số C đường B, Khu phố A, Phường C, thị xã C, tỉnh Tiền Giang
(theo Hợp đồng ủy quyền lập ngày 25/3/2025).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Văn Tú A, sinh năm 1969;
Địa chỉ: Số C, Tổ A, Khu B, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Văn Tú A: Chị Phạm Như T, sinh năm
1987 (có mặt);
Địa chỉ: Số B, ấp T, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang (theo Hợp đồng ủy
quyền lập ngày 06/9/2024).
4. Người kháng cáo: Bị đơn Lê Duy T1.
Theo án sơ thẩm;
* Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn ông Nguyễn Thanh N có đại diện theo ủy quyền là chị Phạm Như T trình
bày:
Vào năm 2022, vợ chồng anh Lê Duy T1 và chị Nguyễn Thanh T2 có vay
của ông Nguyễn Thanh N tổng số tiền 2.350.000.000 đồng để làm vốn kinh
doanh, cụ thể như sau:
Ngày 30/6/2022 vay 500.000.000 đồng với mức lãi suất 3%/ tháng, thời
hạn vay là 01 năm từ ngày 30/6/2022 cho đến ngày 30/6/2023. Để đảm bảo cho
nghĩa vụ trả nợ, vợ chồng anh T1, chị T2 có thế chấp cho ông Nhân Q sử dụng
thửa đất số 234, tờ bản đồ 17, diện tích 69,2m
2
tại ấp M, xã T, huyện C, tỉnh
Tiền Giang được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN CS05256 cấp ngày 22/5/2020 cho chị
Nguyễn Thanh T2 đứng tên. Việc vay tiền và thế chấp này có làm hợp đồng do
Phòng C, tỉnh Tiền Giang công chứng số 2201, quyền số 04/2022TP/CC-
SCC/HĐGD. Từ khi vay tiền đến nay, anh T1 và chị T2 chỉ trả được cho ông N
01 tháng tiền lãi với số tiền 15.000.000 đồng thì ngưng cho đến nay.
Ngày 30/7/2022 tiếp tục vay 1.850.000.000 đồng, thỏa thuận miệng lãi suất
3%/ tháng, lãi trả hàng tháng. Thời hạn vay là 01 năm từ ngày 30/7/2022 đến
ngày 30/7/2023 và do anh T1, chị T2 còn nợ ông N số tiền lãi của các hợp đồng
3
vay trước đó chưa trả là 253.700.000 đồng nên ông N yêu cầu anh T1 ghi luôn
vào biên nhận ngày 30/7/2022. Từ khi vay anh T1 không có trả lãi. Ông N xác
định ngày 30/7/2022, vợ chồng anh T1 và chị T2 có đến hỏi vay của ông số tiền
1.850.000.000 đồng nhưng trong biên nhận chỉ có một mình anh T1 ký tên là do
ông N sơ suất, tin tưởng hai vợ chồng anh T1, chị T2 đã ký tên do hai bên đã có
giao dịch từ năm 2019. Đối với số tiền lãi 253.700.000 đồng, ông N không thể
cung cấp được số tiền vốn vay, hai bên thỏa thuận lãi suất, trình tự trả vốn và lãi
như thế nào mà anh T1 và chị T2 chỉ còn nợ lại 253.700.000 đồng tiền lãi, do
sau khi ông N và vợ chồng anh T1, chị T2 chốt nợ, ông N đã giao lại cho anh T1
các giấy tờ này.
Vì vậy, nay ông Nguyễn Thanh N khởi kiện yêu cầu anh Lê Duy T1 và chị
Nguyễn Thanh T2 phải cùng liên đới trả cho ông N số tiền vốn vay là
2.350.000.000 đồng và tiền lãi như sau:
+ Tiền lãi trên số tiền vay 500.000.000 đồng tính từ ngày 01/8/2022 cho
đến khi Tòa giải quyết xong với mức lãi 1,66%/ 1tháng. Ông N đồng ý trả lại
cho anh T1, chị T2 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 234
khi anh T1, chị T2 trả xong khoản nợ này.
+ Tiền lãi trên số tiền vay 1.850.000.000 đồng tính từ ngày 30/7/2022 cho
đến khi Tòa giải quyết xong với mức lãi 1,66%/ tháng.
+ Tiền lãi thiếu trước đó chưa trả là 253.700.000 đồng.
* Tại biên bản hòa giải và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Lê
Duy T1 trình bày:
Anh là chồng của chị Nguyễn Thanh T2. Ngày 30/6/2022 anh và vợ có làm
hợp đồng vay của ông Nguyễn Thanh N số tiền 500.000.000 đồng, với lãi suất
thỏa thuận, thời hạn vay là 01 năm từ ngày 30/6/2022 đến 30/7/2023 và có thế
chấp cho ông N giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 234, tờ bản đồ 17,
tại ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang như phía ông N trình bày là đúng.
Nhưng chỉ mình anh đứng ra nhận và sử dụng số tiền này. Sau khi vay, anh có
trả cho bà Văn Tú A, sinh năm 1969 là vợ ở cùng địa chỉ ông N 02 tháng tiền lãi
bằng hình thức chuyển khoản, 01 tháng tiền lãi bằng tiền mặt, tổng cộng là 03
tháng tiền lãi. Đối với khoản vay 1.850.000.000 đồng và tiền lãi 253.700.000
đồng được thể hiện tại biên nhận ngày 30/7/2022 mà ông N dùng làm căn cứ để
khởi kiện, anh xác định anh có viết biên nhận này nhưng viết cho bà Văn Tú A,
thời điểm viết biên nhận này không có mặt ông N. Mục đích viết biên nhận này
do anh với bà A có thỏa thuận như sau: Do trước đây anh là cán bộ tín dụng của
Ngân hàng S, khi khách hàng đến kì hạn trả nợ cho Ngân hàng nhưng không có
tiền trả, anh giới thiệu cho khách hàng này đến gặp bà Văn Tú A vay tiền.
Nhưng bà Tú A không biết những khách hàng này là ai, khả năng trả nợ như thế
nào nên yêu cầu anh phải đứng ra viết biên nhận là anh có vay mượn tiền bà A
để nếu như khách hàng không trả thì yêu cầu anh phải đứng ra trả nợ cho bà Tú
A, đây là phương thức giao dịch giữa anh với bà Tú A. Trong quá trình làm ăn
với bà A, anh có viết rất nhiều biên nhận trong đó có biên nhận này, nhưng thực
4
tế hai bên không có giao dịch gì. Anh xác định anh không có đưa cho ông N hay
bà A biên nhận này, theo anh ông N có biên nhận này để khởi kiện là do trong
lúc anh giao dịch qua lại với bà A, anh có kẹp nhầm biên nhận đã ghi sẵn này
nhưng chưa giao dịch cho bà A, bà A đưa cho ông N để khởi kiện. Còn việc anh
giao dịch với bà Văn Tú A nhưng lại ghi tên ông Nguyễn Thanh N là do sau khi
thế chấp đất cho ông N, bà A yêu cầu anh ghi tên ông N.
Do đó, nay đối với yêu cầu khởi kiện của ông N, anh đồng ý trả cho ông N
số tiền vốn vay 500.000.000 đồng, tiền lãi yêu cầu tính với mức lãi suất 10%/
năm tính từ ngày kí hợp đồng đến khi Tòa giải quyết xong, đối với số tiền lãi
của số tiền 500.000.000 đồng mà anh đã trả cho ông N, anh yêu cầu Tòa cấn trừ
vào sau khi hai bên thỏa thuận được mức lãi suất. Còn đối với số tiền
1.850.000.000 đồng và tiền lãi 253.700.000 đồng mà ông N kiện, anh xác định
anh không có giao dịch này nên không đồng ý trả. Anh yêu cầu sau khi anh trả
đủ cho ông N số tiền vốn vay và lãi thì ông N phải trả lại anh bản chính giấy
chứng nhận quyền sử dụng thửa đất 234 nêu trên.
* Tại biên bản hòa giải và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị
Nguyễn Thanh T2 có đại diện theo ủy quyền là anh Lê Duy T1 trình bày:
Thống nhất với lời trình bày anh T1. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông N,
chị T2 không đồng ý cùng liên đới với anh T1 trả nợ cho ông N do chỉ mình anh
T1 nhận và sử dụng số tiền trên và yêu cầu ông N phải trả lại giấy chủ quyền
thửa đất 234 nêu trên ngay khi anh T1 trả đủ số tiền vốn vay 500.000.000 đồng
và lãi. Đối với khoản vay 1.850.000.000 đồng và tiền lãi 253.700.000 đồng được
thể hiện tại biên nhận ngày 30/7/2022 giao dịch này chị không có tham gia nên
không đồng ý trả cho ông N.
* Tại văn bản trình bày ý kiến người liên quan bà Văn Tú A trình bày:
Bà là vợ của ông Nguyễn Thanh N, số tiền mà ông N cho anh T1 chị T2
vay là tài sản riêng của ông N.
Việc ông Lê Duy T1 khai ông T1 có trả cho bà 03 tháng tiền lãi và sở dĩ có
biên nhận lập ngày 30/7/2022 là do anh T1 viết cho bà để làm tin do trước đó
anh T1 với bà có mối quan hệ làm ăn là không đúng. Bà xin khai rõ vấn đề này
như sau: Vào năm 2019, anh T1, chị T2 có mối quan hệ làm ăn với chồng bà là
ông Nguyễn Thanh N. Bà có biết việc ông N có cho anh Lê Duy T1 và chị
Nguyễn Thanh T2 vay tiền vì bà thường ở nhà nên bà thường thấy anh T1, chị
T2 đến nhà để vay tiền của ông N.
Ngày 30/7/2022, anh T1, chị T2 đến nhà bà và anh T1 viết biên nhận cho
ông N để vay số tiền 1.850.000.000 (một tỷ tám trăm năm mươi triệu) đồng và
anh T1, chị T2 có ghi số tiền lãi đối với những hợp đồng trước đó là
253.700.000 (hai trăm năm mươi ba triệu bảy trăm nghìn) đồng. Sau khi anh T1
viết biên nhận ngày 30/7/2022, ông N đã giao số tiền 1.850.000.000 (một tỷ tám
trăm năm mươi triệu) đồng và giao lại những biên nhận bản chính trước đó liên
quan đến số tiền lãi 253.700.000 (hai trăm năm mươi ba triệu bảy trăm nghìn)
5
đồng cho anh T1, chị T2.
Anh T1 có chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của bà 01 tháng tiền lãi số
tiền là 15.000.000 đồng đối với số tiền vay 500.000.000 đồng. Bà đã rút số tiền
này trong tài khoản ngân hàng để đưa tiền mặt cho ông N số tiền 15.000.000
đồng.
Trong biên bản hòa giải ngày 12/7/2024, anh T1 trình bày là có viết biên
nhận ngày 30/7/2022 nhưng viết cho bà, thời điểm viết biên nhận này không có
mặt ông N. Mục đích viết biên nhận này do anh T1 với bà có thỏa thuận như
sau: Do trước đây anh T1 là cán bộ tín dụng của Ngân hàng S, khi khách hàng
đến kì hạn trả nợ cho Ngân hàng nhưng không có tiền trả, anh T1 giới thiệu cho
khách hàng này đến gặp bà vay tiền. Nhưng bà không biết những khách hàng
này là ai, khả năng trả nợ như thế nào nên bà yêu cầu anh T1 phải đứng ra viết
biên nhận là anh T1 có vay mượn tiền của bà để nếu như khách hàng không trả
thì bà yêu cầu anh T1 phải đứng ra trả nợ cho bà, đây là phương thức giao dịch
giữa anh T1 với bà. Trong quá trình làm ăn với bà, anh T1 có viết rất nhiều biên
nhận trong đó có biên nhận này, nhưng thực tế hai bên không có giao dịch gì.
Lời khai này là hoàn toàn không đúng vì: giữa bà với anh T1, chị T2 không có
quan hệ làm ăn gì. Anh T1 chị T2 chỉ có quan hệ vay mượn với chồng bà là ông
N. Khi không có ông N ở nhà thì anh T1 chuyển tiền cho bà, cũng là nhờ bà đưa
giùm cho ông N đối với những hợp đồng vay trước đó. Việc anh T1 viết giấy nợ
cho ông N là việc riêng của chồng bà với anh T1 chị T2, bà hoàn toàn không
liên quan. Trong vụ kiện này, bà không có yêu cầu độc lập, đề nghị Tòa án xem
xét giải quyết theo quy định pháp luật.
* Tại phiên tòa:
- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chị Phạm Như T trình bày:
Đối với khoản tiền vay 500.000.000 đồng: Ông N đồng ý điều chỉnh lãi
suất lại với mức 1,66%/ tháng và đồng ý cấn trừ tiền lãi đã trả vượt quy định
pháp luật vào số tiền vốn 500.000.000 đồng và yêu cầu anh T1, chị T phải cùng
liên đới trả cho ông N số tiền vốn sau khi được cấn trừ số tiền lãi đã trả dư vào
số tiền vốn 500.000.000 đồng và tiền lãi được tính từ tháng 8/2022 đến thời
điểm xét xử hôm nay - tháng 11/2024. Ông Nguyễn Thanh N đồng ý trả lại cho
anh Lê Duy T1 và chị Nguyễn Thanh T2 bản chính giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ GCN CS05256 do Sở T cấp ngày 22/5/2020 cho chị Nguyễn
Thanh T2 ngay khi anh T1 và chị T2 trả xong khoản nợ trên.
Đối với khoản vay 1.850.000.000 đồng: Ông N yêu cầu anh Lê Duy T1 và
chị Nguyễn Thanh T2 phải có nghĩa vụ cùng liên đới trả cho ông N số tiền vốn
vay 1.850.000.000 đồng và tiền lãi với mức lãi suất 0.83%/tháng trên số tiền vốn
tính từ tháng 8/2023 đến tháng 11/2024.
Đối với khoản tiền lãi 253.700.000 đồng: Ông N xin rút lại yêu cầu khởi
kiện về việc buộc chị Nguyễn Thanh T2 phải cùng liên đới với anh Lê Duy T1
trả cho ông N số tiền lãi 253.700.000 đồng theo biên nhận lập ngày 30/7/2022.
6
- Bị đơn anh Lê Duy T1 trình bày:
Đối với khoản vay 500.000.000 đồng: Khi vay, anh và ông Nguyễn Thanh
N thỏa thuận lãi suất là 7,5% / năm. Thực chất anh chỉ nhận được số tiền vốn
vay 450.000.000 đồng, đã trả được 15.000.000 đồng tiền lãi và 280.000.000
đồng tiền vốn cho bà A, ông N nên chỉ còn nợ lại ông N số tiền vốn 170.000.000
đồng. Do chỉ mình anh nhận và sử dụng số tiền này nên anh đồng ý trả cho ông
N số tiền vốn còn nợ là 170.000.000 đồng và tiền lãi với mức lãi suất 1,66%.
Chị T2 có kí tên nhưng không có sử dụng số tiền này nên không đồng ý cùng
liên đới trả. Yêu cầu ông N trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh
và chị T2 ngay khi anh trả xong khoản nợ này.
Đối với khoản vay 1.850.000.000 đồng: Anh vẫn giữ nguyên ý kiến đã
trình bày trước đây.
Đối với khoản tiền lãi 253.700.000 đồng: Ông N xin rút lại yêu cầu khởi
kiện, anh không có ý kiến.
- Đại diện theo ủy quyền của người liên quan bà Văn Tú A là chị Phạm
Như T trình bày: Số tài khoản 070092818551 mở tại Ngân hàng S chi nhánh T4
là của bà Văn Tú A. Bà A biết việc chồng bà là ông N với anh T1, chị T có quan
hệ vay mượn tiền bạc. Trong những lúc ông N không có ở nhà, thì anh T1 có
chuyển tiền cho bà A để nhờ bà A đưa giùm lại cho ông N. Bà A nhận tiền rồi
đưa lại cho ông N. Việc chị Đặng Thị Trúc N1 chuyển tiền cho bà A là do giữa
bà A với chị N1 có quan hệ làm ăn riêng, không liên quan gì đến anh T1. Trong
những khoản nợ mà ông N khởi kiện yêu cầu anh T1, chị T không liên quan đến
bà A do nguồn tiền cho vay là tiền riêng của ông N.
91/2024/DS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2024
của Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang đã Căn cứ vào khoản 3 Điều 26,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, Điều 147,
khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều
288, Điều 357; Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 Luật Hôn
nhân và gia đình2014; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP11/01/2019 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Điều 26 của Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N về việc buộc anh
Lê Duy T1 và chị Nguyễn Thanh T2 phải cùng liên đới trả cho ông Nguyễn
Thanh N số tiền vốn vay 493.300.000 đồng và lãi 221.097.000, tổng cộng là
714.397.000 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (14/11/2024) cho đến khi thi
hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
7
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự
năm 2015.
Ông Nguyễn Thanh N có nghĩa vụ trả lại cho anh Lê Duy T1 và chị
Nguyễn Thanh T2 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ GCN
CS05256 do Sở T cấp ngày 22/5/2020 cho chị Nguyễn Thanh T2 ngay khi anh
T1 và chị T2 trả xong khoản nợ trên.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N về việc
buộc anh Lê Duy T1 phải có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Thanh N số tiền vốn
vay 1.850.000.000 đồng và tiền lãi 230.325.000 đồng, tổng cộng là
2.080.325.000 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (14/11/2024) cho đến khi thi
hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự
năm 2015.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N về việc
buộc chị Nguyễn Thanh T2 phải cùng liên đới với anh Lê Duy T1 trả cho ông
Nguyễn Thanh N số tiền số tiền vốn vay 1.850.000.000 đồng và tiền lãi
230.325.000 đồng, tổng cộng là 2.080.325.000 đồng.
4. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N về việc buộc chị
Nguyễn Thanh T2 phải cùng liên đới với anh Lê Duy T1 trả cho ông Nguyễn
Thanh N số tiền lãi 253.700.000 đồng theo biên nhận lập ngày 30/7/2022.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án, quyền
kháng cáo và quyền, nghĩa vụ thi hành án của các đương sự theo quy định pháp
luật.
Ngày 28/11/2024, bị đơn Lê Duy T1 có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc:
- Buộc anh Lê Duy T1 và chị Nguyễn Thanh T2 phải cùng liên đới trả cho
ông Nguyễn Thanh N số tiền vốn vay 493.300.000 đồng và lãi 221.097.000,
tổng cộng là 714.397.000 đồng.
- Buộc anh Lê Duy T1 phải có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Thanh N số
tiền vốn vay 1.850.000.000 đồng và tiền lãi 230.325.000 đồng, tổng cộng là
2.080.325.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn Lê Duy T1
giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T1 trình bày:
Thứ nhất, các lần chuyển tiền giữa chị Trúc N1 cho bà Tú A để trả tiền cho ông
8
T1 có nội dung chuyển tiền là “N1 chuyển tiền vợ anh N” là có thật và dùng ký
hiệu với nhau. Thứ hai, để làm sáng tỏ vụ án cần đưa chị Trúc N1 tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Thứ ba, biên nhận
ngày 30/7/2022 có một mình ông T1 ký tên, không có vợ chồng ông N ký tên.
Từ đó đề nghị Tòa án thu thập thêm tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích
cho ông T1.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng từ
khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ
đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
Đối với khoản vay 500.000.000 đồng theo “Hợp đồng vay tiền” ngày
30/6/2022. Nhận thấy, trong quá trình hòa giải tại cấp sơ thẩm, anh T1 thừa nhận
có vay của nguyên đơn số tiền 500.000.000 đồng với lãi suất 3%/ tháng, thời
hạn vay là 01 năm từ ngày 30/6/2022 cho đến ngày 30/6/2023, có trả 03 tháng
tiền lãi là 15.000.000 đồng. Cấp sơ thẩm, ông T1 trình bày đối với khoản vay
500.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất là 7,5%/1 năm nhưng thực chất anh T1 chỉ
nhận được số tiền vốn vay 450.000.000 đồng và anh T1 đã trả lãi được
15.000.000 đồng và tiền vốn 280.000.000 nên chỉ còn nợ lại ông N số tiền vốn
170.000.000 đồng. Như vậy, lời trình bày của anh T1 trước sau mâu thuẫn và
không được ông N thừa nhận nên lời trình bày của anh T1 là không có cơ sở
chấp nhận.
Đối với khoản vay 1.850.000.000 đồng theo “Biên nhận” ngày 30/7/2022.
Anh T1 thừa nhận biên nhận ngày 30/7/2022 nhưng viết là để làm tin cho việc
vay tiền của những khách hàng của Ngân hàng S cần vay tiền để đáo hạn ngân
hàng, thực chất anh T1 không có vay của ông N số tiền 1.850.000.000 đồng này.
Tuy nhiên, theo đơn kháng cáo và trình bày tại phiên tòa phúc thẩm thì anh T1
trình bày số tiền vay 1.850.000.000 đồng xuất phát từ 02 hợp đồng vay ngày
30/6/2022 của ông N với anh T1 vay 500.000.000 đồng và Lê Đức T3
500.000.000 đồng nhưng anh T1 chưa nhận tiền. Sau đó anh T1 mượn thêm
850.000.000 đồng cho khách hàng nên làm biên nhận ngày 30/7/2022 với ông N
và bà Văn Tú A là 1.850.000.000 đồng. Anh T1 có cung cấp các bản sao kê các
lần giao dịch chuyển khoản từ chủ tài khoản Đặng Thị Trúc N1 và cho rằng anh
T1 nhờ chị N1 chuyển khoản cho bà Văn Tú A từ ngày 25/11/2021 đến ngày
01/12/2022 với tổng số tiền vốn và lãi là 1.870.000.000 đồng. Tuy nhiên theo
công văn số 148 ngày 19/5/2025 của Ngân hàng S1 - PGD An Hữu xác nhận 02
giao dịch ngày 09/12/2021 số tiền 500.000.000 đồng và 600.000.000 đồng, 01
giao dịch ngày 16/12/2021 số tiền 320.000.000 đồng chị Đặng Thị Trúc N1
không chuyển tiền cho chủ tài khoản Văn Tú A mà người thụ hưởng là Nguyễn
Thị Tú A1, số tài khoản 070077118800. Bên cạnh đó, theo lịch sử giao dịch
9
chuyển tiền của chị N1 thì có 11/17 giao dịch được thực hiện trước thời điểm
anh T1 ký 02 hợp đồng vay trên.
Như vậy, lời trình bày của anh T1 trước sau mâu thuẫn với nhau và mâu
thuẫn với cả những chứng cứ mà anh T1 cung cấp. Do đó, kháng cáo của anh T1
là không có cơ sở chấp nhận, từ đó đề nghị cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
ÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng
xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Xét đơn kháng cáo và biên lai thu tạm ứng án phí phúc thẩm do bị đơn Lê
Duy T1 nộp còn trong thời hạn và hợp lệ, đúng quy định được xem xét giải
quyết theo trình tự phúc thẩm.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định quan hệ tranh chấp đúng quy định và đúng
thẩm quyền giải quyết.
[2] Về nội dung xét kháng cáo của bị đơn Lê Duy T1:
[2.1] Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn gồm:
- 01 “Hợp đồng vay tiền” ngày 30/6/2022 (có công chứng) có chữ ký tên
ghi họ tên của Lê Duy T1 và Nguyễn Thanh T2, số tiền vay 500.000.000 đồng,
mức lãi suất 3%/tháng, thời hạn vay là 01 năm từ ngày 30/6/2022 đến ngày
30/6/2023. Tài sản thế chấp là QSD đất thửa 234 – tờ bản đồ số 17 – diện tích
69,2m
2
theo Giấy chứng nhận QSD đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất, số vào sổ cấp GCN: CS05256 ngày 22/5/2020 do Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh T cấp cho bà Nguyễn Thanh T2 (bút lục 59-61).
- 01 “Biên nhận” ngày 30/7/2022 do bị đơn Lê Duy T1 viết tay và ký tên,
ghi họ tên (bút lục 62) có nội dung: “Tôi tên Duy T1 có mượn anh N với số tiền
1.850.000.000 (một tỷ tám trăm năm mươi triệu đồng) vào 30/7/2022 và tiền lãi
253.700.000 (không tính vào vốn) hẹn vào 30/7/2023 trả lại”.
Nguyên đơn Nguyễn Thanh N khởi kiện yêu cầu bị đơn Lê Duy T1 và
Nguyễn Thanh T2 có nghĩa vụ liên đới trả số tiền vay theo 02 chứng cứ trên. Tại
phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền lãi
253.700.000 đồng theo biên nhận ngày 30/7/2022.
[2.2] Về quá trình thực hiện giao dịch vay:
Bị đơn thống nhất với nguyên đơn về hình thức thực hiện “Hợp đồng vay
tiền” ngày 30/6/2022 và “Biên nhận” ngày 30/7/2022, thừa nhận chữ ký tên, ghi
họ tên.
Tuy nhiên, bị đơn không thống nhất về số tiền nợ vay, cụ thể:
10
- Về số tiền vay 500.000.000 đồng theo “Hợp đồng vay tiền” ngày
30/6/2022:
Tại biên bản hòa giải vào các ngày 10/6/2024 (bút lục 37), 12/7/2024 (bút
lục 45), ông T1 (đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà Thanh T2)
thừa nhận có vay của nguyên đơn số tiền 500.000.000 đồng với lãi suất 3%
tháng, thời hạn vay là 01 năm từ ngày 30/6/2022 cho đến ngày 30/6/2023 và có
trả 03 tháng tiền lãi.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông T1 trình bày “Đối với khoản vay 500.000.000
đồng: Khi vay, anh và ông Nguyễn Thanh N thỏa thuận lãi suất là 7,5%/1 năm.
Thực chất anh chỉ nhận được số tiền vốn vay 450.000.000 đồng, đã trả được
15.000.000 đồng tiền lãi và 280.000.000 đồng tiền vốn cho bà A1, ông N nên chỉ
còn nợ lại ông N số tiền vốn 170.000.000 đồng”.
Nhưng đơn kháng cáo ngày 28/11/2024, ông T1 lại trình bày: Cùng ngày
30/6/2022, ngoài việc công chứng hợp đồng vay này với ông N thì ông T1 còn
ký với ông N hợp đồng vay tiền khác thế chấp bằng Giấy đất số 05256 cấp ngày
22/5/2020 cho Lê Đức T3 với số tiền vay 500.000.000 đồng. Tổng số tiền vay
của 02 hợp đồng vay ngày 30/6/2022 là 1.000.000.000 đồng nhưng thực tế ông
T1 chỉ nhận 450.000.000 đồng (350.000.000 đồng do bà Văn Tú A chuyển qua
tài khoản S số 070093315047 tên Đặng Thị Trúc N1 vào ngày 01/7/2022; và
100.000.000 đồng do bà Văn Tú A đưa cho ông T1 vào ngày 26/7/2022). Với số
tiền 450.000.000 đồng ông T1 nhận như trên, ông T1 đã trả dần: Trả
150.000.000 đồng do Đặng Thị Trúc N1 chuyển trả cho bà Văn Tú A, và
130.000.000 đồng do ông T1 chuyển trả cho bà Văn Tú A. Như vậy, với số tiền
1.000.000.000 đồng của 02 hợp đồng vay ngày 30/6/2022 thì ông T1 chỉ còn nợ
ông N, bà A 170.000.000 đồng.
Nhận thấy, ông N chỉ khởi kiện ông T1 và bà T2 về số tiền vay theo “Hợp
đồng vay tiền” ngày 30/6/2022 do ông N và ông T1, bà T2 thực hiện giao dịch
với số tiền 500.000.000 đồng; ông T1 cũng không nêu được số tiền cụ thể đã trả
cho lần vay riêng này là bao nhiêu và không được ông N thừa nhận; mặc khác,
các lời khai của chính ông T1 từ các giai đoạn từ khi hòa giải, xét xử sơ thẩm và
kháng cáo đều không thống nhất với nhau nên không có căn cứ để Hội đồng xét
xử chấp nhận.
Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông N, buộc ông T1 và bà T2 liên đới
trả số tiền vay 500.000.000 đồng và lãi vay 1,66% tháng tính từ tháng 8/2022
đến tháng 11/2022 sau khi cấn trừ số tiền lãi đã trả 15.000.000 đồng là phù hợp.
- Về số tiền vay 1.850.000.000 đồng theo “Biên nhận” ngày 30/7/2022:
Theo lời khai, ông T1 thừa nhận biên nhận ngày 30/7/2022 là do ông viết
và ký tên, ghi họ tên nhưng viết là để làm tin do trước đó ông có làm ăn với bà
Văn Tú A (là vợ ông N), thực chất ông không có vay ông N số tiền
1.850.000.000 đồng này (bút lục 37, 45). Tuy nhiên, đơn kháng cáo ngày
28/11/2024 ông T1 trình bày: “Riêng số tiền 1.850.000.000 đồng ký vào ngày 30
11
tháng 7 năm 2022 là từ 02 hợp đồng của tôi Lê Duy T1 và Lê Đức T3 ký vào
ngày 30 tháng 6 năm 2022 với số tiền 01 tỷ đồng mà tôi chưa nhận tiền. Sau đó
tôi có nhu cầu mượn thêm 850 triệu cho khách hàng mà tôi phải làm biên nhận
vào ngày 30/7/2022 với ông N và bà Văn Tú A”, cùng nội dung đơn kháng cáo
ông T1 thừa nhận có nợ 850.000.000 đồng đã mượn thêm theo biên nhận ngày
30/7/2022.
Nhận thấy lời khai của ông T1 như trên là mâu thuẫn nhau, lời khai này
không được ông N và bà Tú A thừa nhận, đồng thời ông T1 không có chứng cứ
để chứng minh cho lời khai của mình, nên cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của
ông N, buộc ông T1 trả số tiền 1.850.000.000 đồng và tiền lãi vay 0,83%tháng
tính từ tháng 8/2022 đến tháng 11/2024 là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp
luật.
Ngoài ra, ông T1 có cung cấp các Sổ phụ tài khoản tiền gởi (có chứng thực)
của chủ tài khoản là Đặng Thị Trúc N1 (bút lục 136-151 và 129-135) liệt kê số
tiền mà ông cho rằng ông nhờ chị Đặng Thị Trúc N1 chuyển khoản cho bà Tú A
nhưng phần nhiều là trước thời điểm ký 02 hợp đồng vay. Và Sổ phụ tài khoản
tiền gởi không kỳ hạn của chủ tài khoản là Đặng Thị Trúc N1 từ bút lục 184 đến
196 (có chứng thực) kèm theo Văn bản trình bày ý kiến của ông. Tuy nhiên, tại
cấp sơ thẩm ông T1 không đồng ý cung cấp địa chỉ cụ thể của chị N1 nên cấp sơ
thẩm không đưa chị N1 vào tham gia tố tụng. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T1
cung cấp thông tin và yêu cầu Tòa án triệu tập chị Trúc N1 tham gia phiên tòa
với tư cách là “người làm chứng”, tuy nhiên chị Trúc N1 không đến tham dự
phiên tòa.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T1 có ý kiến đề nghị Tòa
án cấp phúc thẩm triệu tập chị Trúc N2 tham gia phiên tòa với tư cách người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nhận thấy, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án thì chưa có tài liệu chứng cứ nào thể hiện nội dung làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của chị Trúc N1 nên chị Trúc N1 không phải là
đương sự trong vụ án này.
Ngoài ra, ông T1 còn cung cấp bản photo Sổ phụ tài khoản tiền gởi không
kỳ hạn của chủ tài khoản là Lê Thị Kim P kèm bản thống kê (bút lục 65-68) cho
rằng chị Đặng Thị Trúc N1 chuyển khoản cho bà Tú A là không phù hợp và các
tài liệu trên không phải là chứng cứ nên Tòa án không xem xét.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu
cầu kháng cáo của bị đơn Lê Duy T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo nên bị đơn Lê Duy
T1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T1 là không
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
12
[6] Về ý kiến và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền
Giang là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 2 Điều 92, Điều 147, Điều 148, Điều 228, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật
Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 288, Điều 357, Điều 463, Điều 466 của Bộ luật dân sự;
Căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình
Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP11/01/2019 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật
về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Lê Duy T1.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 91/2024/DS-ST ngày 14/11/2024
của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang.
:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N về việc buộc ông
Lê Duy T1 và bà Nguyễn Thanh T2 có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn
Thanh N số tiền vốn vay 493.300.000 đồng và lãi 221.097.000, tổng cộng là
714.397.000 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (14/11/2024) cho đến khi thi
hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Ông Nguyễn Thanh N có nghĩa vụ trả lại cho ông Lê Duy T1 và bà Nguyễn
Thanh T2 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ GCN
CS05256 do Sở T cấp ngày 22/5/2020 cho bà Nguyễn Thanh T2 ngay khi ông
T1 và bà T2 trả xong khoản nợ trên.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N về việc
buộc ông Lê Duy T1 phải có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Thanh N số tiền vốn
vay 1.850.000.000 đồng và tiền lãi 230.325.000 đồng, tổng cộng là
2.080.325.000 đồng.
13
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (14/11/2024) cho đến khi thi
hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N về việc
buộc bà Nguyễn Thanh T2 phải cùng liên đới với ông Lê Duy T1 trả cho ông
Nguyễn Thanh N số tiền vốn vay 1.850.000.000 đồng và tiền lãi 230.325.000
đồng, tổng cộng là 2.080.325.000 đồng.
4. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N về việc buộc bà
Nguyễn Thanh T2 phải cùng liên đới với ông Lê Duy T1 trả cho ông Nguyễn
Thanh N số tiền lãi 253.700.000 đồng theo biên nhận lập ngày 30/7/2022.
5. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
Ông Nguyễn Thanh N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được
trừ vào số tiền 49.845.667 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số
0004803 ngày 15/4/2024 của Chi Cục thi hành án dân sự thị xã C, tỉnh Tiền
Giang nên được hoàn lại số tiền 49.545.667 đồng.
Ông Lê Duy T1 và bà Nguyễn Thanh T2 phải cùng liên đới chịu
32.576.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Lê Duy T1 phải chịu 73.606.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Án phí phúc thẩm: Ông Lê Duy T1 chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc
thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai
thu tạm số 0005221 ngày 28/11/2024 của Chi Cục thi hành án dân sự thị xã C,
xem như ông T1 đã nộp đủ án phí phúc thẩm.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9
Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND thị xã C;
- CCTHADS thị xã C;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HI NG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Th Minh Nguyt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 905/2025/DS-PT ngày 13/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 865/2025/DS-PT ngày 05/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm