Bản án số 336/2024/HNGĐ-ST ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 336/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 336/2024/HNGĐ-ST ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 336/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Vũ Văn G - Nguyễn Thị L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
_____________
Bản án số: 336/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 30/8/2024
V/v “Ly hôn, tranh chấp về nuôi
con khi ly hôn”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
__________________________________
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Xuân Trường.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Đỗ Thị Thanh.
Vũ Thị Dung.
- Thư phiên tòa: Thị Huyền - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Hải
Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa:
Phan Thị Thu Huyền - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét
xử thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ số 345/2024/TLST- HNGĐ
ngày 26 tháng 6 năm 2024, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 383/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng
7 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 252/2024/QĐST-HNGĐ ngày
13/8/2024, giữa:
- Nguyên đơn: Anh Vũ Văn G, sinh năm 1978.
Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn Đ, L, thành phố H, tỉnh Hải Dương.
Nơi cư trú hiện nay: Đài L vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người được anh G ủy quyền về việc giao nhận văn bản: Anh Trọng Y,
sinh năm 2001. Địa chỉ cư trú: Xóm E, D, huyện D, tỉnh Nghệ An; Địa chỉ liên
hệ: Số D T, phường Y, quận C, thành phố H vắng mặt.
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1979.
Địa chỉ trú: Thôn Đ, L, thành phố H, tỉnh Hải Dương/ vắng mặt lần
thứ hai không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai các tài liệu trong hồ vụ án,
nguyên đơn anh Văn G trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị L kết hôn trên sở
tự nguyện, đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân L, huyện G (nay thành
phố H), tỉnh Hải Dương vào ngày 18/02/1997. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với
nhau tại gia đình anh, đến tháng 9/2013 anh đi lao động tại Đài Loan. Thời gian
đầu vợ chồng vẫn liên lạc với nhau, nhưng sau đó do bận làm ăn vợ chồng ít liên
lạc, ít quan tâm đến nhau, mâu thuẫn bắt đầu phát sinh, nguyên nhân do tính
cách của anh chị không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống, tình cảm ngày càng
phai nhạt. Do khoảng cách về địa lý nên vợ chồng không có cơ hội để gần gũi, chia
sẻ, quan tâm đến nhau, anh chị nhiều lần tìm cách nói chuyện để hàn gắn nhưng
không kết quả, thời gian gần đây mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng
trầm trọng hơn. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay, không ai quan
tâm đến ai, anh nhiều lần đề nghị chị L hợp tác để giải quyết ly hôn nhưng chị L
không hợp tác. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, vchồng không
thể hàn gắn được, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị
L.
Về con chung: Vợ chồng 03 con chung là Tuấn A, sinh ngày
16/12/1999; Vũ Th Mai C, sinh ngày 16/4/2005 Như Q, sinh ngày
06/6/2014, hiện con Tuấn A Thị Mai C đã trưởng thành, khỏe mạnh nên
anh không yêu cầu Tòa án giải quyết, con Như Q đang với chị L. Do không
có mặt ở Việt Nam nên anh đề nghị giao con chung Vũ Như Q cho chị L chăm sóc,
nuôi dưỡng anh tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con Như Q là
2.000.000đ/tháng, thời điểm cấp dưỡng kể từ khi bản án hiệu lực pháp luật cho
đến khi con thành niên (tròn 18 tuổi).
Về tài sản chung: Anh đề nghị tự thống nhất, thỏa thuận nên không yêu cầu
Tòa án giải quyết.
Hiện anh G đang lao động tại Đài Loan nên anh ủy quyền cho anh Trọng
Y thay anh giao, nhận các văn bản, tài liệu tại Tòa án, đồng thời đề nghị được giải
quyết vắng mặt.
- Tại các bản khai chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị anh Văn G
quan hệ n nhân như anh G trình bày đúng. Anh G họ tên n G,
nhưng khi đi đăng ký kết hôn do U là Phạm Văn G1. Thực tế các giấy tờ nhân thân
và giấy khai sinh của các con đều thể hiện là Văn G. Ngoài ra, anh G sinh năm
1977 như trong trích lục kết hôn bản sao, sổ đăng ký kết hôn và giấy khai sinh của
cháu Tuấn A, nhưng khi làm lại giấy chứng minh nhân dân anh G khai năm
sinh 1978. Khi thực hiện việc đăng kết hôn anh chị đã đủ tuổi được thực
hiện việc đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật. Chị khẳng định anh G
họ tên Văn G sinh năm 1977 là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng
chung sống với nhau tại gia đình nhà chồng. Quá trình chung sống anh G chơi bời
cờ bạc, dẫn đến nợ nần nên đã phải bán đất đi để trả nợ. Anh G bắt đầu đi lao động
tại Đài Loan từ năm 2013 cho đến nay chưa về nước, thời gian đầu anh liên lạc
về cho gia đình, kể từ năm 2019 đến năm 2020 anh ít liên lạc về nhà không
quan tâm đến mẹ con chị. Chị một mình gánh vác công việc bên nội, bên ngoại
gồng gánh nuôi các con khôn lớn, anh không gửi tiền về cho chị nuôi con và không
trách nhiệm với các con, bên cạnh đó anh không chung thủy với chị và có nhiều
người phụ nkhác bên ngoài. Chị cùng các con nhiều lần lựa lời khuyên bảo
nhưng anh G không thay đổi, gia đình nhà chồng biết nhưng không nói năng gì,
vchồng sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay, nay anh G xác định tình cảm v
chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Quan điểm của chị, mong
muốn giữ gìn gia đình để các cháu mái ấm gia đình hoàn chỉnh, không mong
muốn vợ chồng ly hôn. Mặc dù chị biết không thể líu kéo được nhưng anh G xin ly
hôn chị không nhất trí.
Về con chung: Chị xác định vợ chồng ba con chung như anh G trình bày
đúng, hiện con Tuấn A con Thị Mai C đã đủ 18 tuổi, chị không yêu
cầu Tòa án giải quyết. Chị đề nghị tiếp tục được chăm sóc, nuôi dưỡng con
Như Q nhất trí việc anh G tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con Như Q
2.000.000đ/tháng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con Vũ Như Q
tròn 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng. Hiện tại cháu Như Q
đang sống tại nhà ông bà ngoại, không sống tại địa phương, chị vẫn đi lại để chăm
sóc con và đề nghị Tòa án không tiến hành lấy lời khai của cháu Vũ Như Q.
Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Người được anh G ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tố tụng tại Tòa án -
anh Trọng Y trình bày: Anh nhất trí nhận ủy quyền của anh G, sau khi nhận
được các văn bản ttụng của Tòa án, anh đã thông báo cho anh G biết, anh G vẫn
giữ nguyên quan điểm như đã trình bày và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Xác minh tại địa phương nơi anh G chị L sinh sống thể hiện: Sổ cấp giấy
chứng nhận đăng kết hôn năm 1995 + 1996 + 1997 và bản sao trích lục kết hôn
thể hiện anh Phạm Văn G1, sinh năm 1977 kết hôn với chị Nguyễn Thị L, sinh
năm 1979. Trong sổ đăng kết hôn chỉ chị Nguyễn Thị L kết hôn với anh
Phạm Văn G1 ngoài ra không có trường hợp chị Nguyễn Thị L kết hôn với ai khác
cũng không trường hợp anh Văn G kết hôn với ai khác. Hồ đăng
kết hôn, UBND xã không còn lưu trữ được. Tại giấy khai sinh bản sao và sổ đăng
khai sinh của cháu Thị Mai C cháu Như Q thể hiện họ tên bố
Văn G, sinh năm 1978, họ tên mẹ Nguyễn Thị L, sinh năm 1979. Như vậy
căn cứ khẳng định anh Phạm Văn G1, sinh năm 1977 anh Văn G, sinh năm
1978 cùng một người. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại địa
phương, vợ chồng chung sống được một thời gian thì anh G đi lao động tại Đài
Loan đến nay đã khoảng hơn 10 năm anh G chưa về nước. Vợ chồng sống xa cách
trong thời gian dài nên không có điều kiện gần gũi, gắn bó, tình cảm vì thế cũng có
sự phai nhạt, chị L vẫn đang sinh sống tại địa phương và đi làm công ty. Anh G
đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét x các
đương sự đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82,
83 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Văn G ly
hôn chị Nguyễn Thị L. Về con chung: Giao con chung Như Q cho chị L trực
tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng; anh G trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung
là 2.000.000đ/tháng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con Vũ Như
Q tròn 18 tuổi. Anh G phải chịu án phí Hôn nhân gia đình thẩm án phí cấp
dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà xem xét ý kiến của c đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn anh Văn G nơi trú trước khi xuất
cảnh tại thôn Đ, L, thành phố H, tỉnh Hải ơng, hiện anh đang lao động, sinh
sống tại Đài Loan. Bị đơn chị Nguyễn Thị L địa chỉ tại thôn Đ, L, thành phố
H, tỉnh Hải Dương. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân tỉnh Hải Dương. Mặc anh G không mặt Việt Nam nhưng anh đã gửi
đơn khởi kiện ly hôn, Bản tự khai, Đơn đề nghị giải quyết vắng mặt ủy quyền
cho anh Lê Trọng Y thay anh giao, nộp tài liệu tại Tòa án. Đơn khởi kiện và các tài
liệu kèm theo đã được Văn phòng K tại Đài Loan chứng thực. Do vậy, có đủ sở
khẳng định quan điểm ly n của anh hoàn toàn tự nguyện. Anh G đơn đề
nghị Tòa án giải quyết vắng mặt, chị L vắng mặt lần thứ hai không do. n
cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xvắng mặt các đương sự theo quy định của
pháp luật.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Văn G chị Nguyễn Thị L kết hôn trên
sở tnguyện, đăng kết hôn tại y ban nhân dân L, huyện G (nay
thành phố H), tỉnh Hải Dương vào ngày 18/02/1997. Tại sổ cấp giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn năm 1995 + 1996 + 1997 và bản sao trích lục kết hôn thể hiện anh
Phạm Văn G1, sinh năm 1977 kết hôn với chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1979. Tại
giấy khai sinh bản sao của cháu Tuấn A thể hiện họ tên cha Văn G sinh
năm 1977, họ tên mẹ Nguyễn Thị L, sinh năm 1979, tại mục họ tên, năm sinh, số
giấy CMND/giấy tờ hợp lệ thay thế của người đi khai sinh thể hiện Vũ Văn G, sinh
năm 1977, quan hệ với người được khai sinh bố đẻ. Tại giấy khai sinh bản sao và
sổ đăng khai sinh của cháu Thị Mai C cháu Như Q đều thể hiện họ
tên bố Văn G, sinh năm 1978, họ tên mẹ Nguyễn Thị L, sinh năm 1979.
Ngoài ra, chị L cũng khẳng định khi đi đăng ký kết hôn UBND xã đã ghi nhầm tên
Phạm Văn G1, thực tế các giấy tờ nhân thân giấy khai sinh của các con đều
thể hiện Văn G. Như vậy, căn cứ khẳng định anh G họ tên là
Văn G là đúng.
Theo sổ cấp giấy chứng nhận đăng kết hôn năm 1995 + 1996 + 1997, bản
sao trích lục kết hôn bản sao giấy khai sinh của cháu Tuấn A đều thể hiện
anh G sinh năm 1977 nhưng tại giấy chứng minh nhân dân, xác nhận thông tin về
trú bản sao giấy khai sinh của cháu Thị Mai C và cháu Vũ Như Q lại thể
hiện anh Văn G, sinh năm 1978. Theo chL trình bày khi chị thực hiện việc
đăng kết hôn anh chị đã đủ tuổi được đăng ký kết hôn theo đúng quy định
của pháp luật. Khi khai sinh cho cháu Tuấn A vẫn khai anh G sinh năm 1977
nhưng khi làm lại giấy chứng minh nhân dân anh G đã khai năm sinh 1978 do
vậy các giấy tờ sau đó mới thể hiện anh L sinh năm 1978. Chị khẳng định anh G
họ và tên Vũ Văn G sinh năm 1977 mới là đúng. Ủy ban nhân dan L cũng
xác nhận anh Phạm Văn G1, sinh năm 1977 anh Văn G, sinh năm 1978
cùng một người. Như vậy căn cứ khẳng định anh G họ tên Văn G,
sinh năm 1977 là đúng và việc đăng ký kết hôn như trên là hôn nhân hợp pháp.
Quá trình chung sống anh L có chơi bời, nợ nần nên tháng 9/2013 anh đã xuất
cảnh sang lao động tại Đài Loan đến nay chưa về nước. Anh Linh xác định do xa
cách nên vợ chồng không quan tâm, không chia sẻ, tình cảm lạnh nhạt không
còn. ChL cho rằng anh không chung thủy với chị, anh đã có nhiều người phụ nữ
khác bên ngoài, bên cạnh đó anh không quan tâm đến mẹ con chị và không gửi tiền
về lo cho các con, chị các con nhiều lần lựa lời khuyên bảo nhưng không có kết
quả. Vợ chồng sống ly thân tnăm 2013 cho đến nay, anh L xác định tình cảm vợ
chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị
L. Chị L cũng xác định mâu thuẫn vchồng không biện pháp hàn gắn tháo gỡ,
nhưng chị mong muốn giữ gìn gia đình để các con mái ấm gia đình hoàn chỉnh
nên chị không nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù chị L không đồng
ý ly hôn nhưng chị cũng xác định mâu thuẫn vchồng trầm trọng, mục đích hôn
nhân không đạt được, chị không biện pháp nào để hàn gắn hạnh phúc gia đình.
Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh G ly hôn chị L là phù hợp với
Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về quan hệ con chung: Anh G và chị L có 03 con chung là Tuấn A,
sinh ngày 16/12/1999; Thị Mai C, sinh ngày 16/4/2005 Như Q, sinh
ngày 06/6/2014. Con Vũ Tuấn AVũ Thị Mai C đã đủ 18 tuổi nên anh chị không
yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh G chị L thống nhất giao con chung Như Q
cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục, anh G tnguyện cấp dưỡng
tiền nuôi con Vũ Như Q là 2.000.000đ/tháng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật
cho đến khi con Như Q tròn 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng
tháng. Hội đồng xét xử xét thấy, thỏa thuận của các đương sự phù hợp với thực tế,
phù hợp với quy định của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Do vậy, cần chấp
nhận thỏa thuận của anh chị giao con chung Như Q cho chị L chăm sóc nuôi
dưỡng phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình.
Chấp nhận s tự nguyện của anh G tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con
2.000.000đ/tháng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con Vũ Như Q
tròn 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh G, chL cùng xác định không yêu cầu
nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[3]. Về án phí: Anh Vũ Văn G phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm
án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia
đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Văn G,
xử cho anh Vũ Văn G ly hôn chị Nguyễn Thị L.
2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Như Q, sinh ngày 06/6/2014
cho chị Nguyễn Thị L tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con
thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của anh Vũ Văn G cấp dưỡng tiền
nuôi con Như Q 2.000.000đ/tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ khi bản án
hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi).
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom
con mà không ai được cản trở.
Kể từ khi chị L đơn yêu cầu thi hành án về khoản tiền cấp dưỡng nuôi
con mà anh G không thi hành khoản tiền trên thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm
trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất chậm trả do các bên thỏa thuận
nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật
dân sự. Nếu không thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật dân sự.
3. Về án phí: Anh Văn G phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án
phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự về
cấp dưỡng nuôi con, được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án
phí, theo biên lai thu số 0000816 ngày 26 tháng 6 năm 2024 của Cục thi hành án
dân sự tỉnh Hải Dương (do anh Đỗ Minh T nộp thay). Anh G còn phải nộp
300.000đ (ba trăm nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Anh Văn G được quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 30, chị Nguyễn Thị L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày ngày ktừ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định
của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- Cục THADS tỉnh Hải Dương;
- UBND xã Liên Hồng, thành phố
Hải Dương, tỉnh Hải Dương;
- Lưu hồ sơ, VP, Tòa GĐ&NCTN.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Xuân Trường
Tải về
Bản án số 336/2024/HNGĐ-ST Bản án số 336/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 336/2024/HNGĐ-ST Bản án số 336/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất