Bản án số 28/2024/HNGĐ_ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 28/2024/HNGĐ_ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 28/2024/HNGĐ_ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 28/2024/HNGĐ_ST
Tên Bản án: | Bản án số 28/2024/HNGĐ_ST ngày 30/09/2024 của TAND huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Ea Súp (TAND tỉnh Đắk Lắk) |
Số hiệu: | 28/2024/HNGĐ_ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ly hôn, tranh chấp nôi con, chia tài sản khi ly hôn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN EA SÚP
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 28/2024/HNGĐ-ST
Ngày 30 tháng 9 năm 2024
V/v:“Ly hôn, tranh chấp nôi con, chia tài
sản khi ly hôn”.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA SÚP, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Phạm Trung Kiên.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Bành Trọng Bình và bà Nguyễn Thị Hồng
- Thư ký ghi biên bản phiên toà: Bà Hà Thị Hồng Nhung – Thư ký Tòa
án nhân dân huyện Ea Súp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp tham gia phiên tòa:
Ông Lê Quý Tỉnh – Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Ea Súp
mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 78/2024/TLST - HNGĐ
ngày 26 tháng 3 năm 2024 về việc:“Ly hôn, tranh chấp nôi con, chia tài sản khi
ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày
22 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 41/2024/QĐST-HNGĐ
ngày 12 tháng 9 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị L – Sinh năm 1973;
Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (có mặt)
2. Bị đơn: Ông Lƣơng Văn Kh – Sinh năm: 1982;
Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà
Hoàng Thị L, trình bày:
Bà và ông Lương Văn Kh chung sống với nhau từ năm 2001. Nhưng đến
ngày 03/4/2009, ông bà mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện
T, tỉnh Cao Bằng. Hôn nhân của ông bà dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện
không có ai ép buộc.
Trong cuộc sống hôn nhân, khoảng thời gian đầu vợ chồng chung sống
với nhau rất hạnh phúc. Nhưng càng về sau, vợ chồng càng phát sinh nhiêu mâu
thuẫn, thường xuyên xảy ra cãi vã. Nguyên nhân là do sự bất đồng trong quan
điểm sống, không có tiếng nói chung, ông Kh thường xuyên chửi bới, lăng mạ
2
và đánh đập bà mà không có lý do, mặc dù chính quyền địa phương, hàng xóm
đã Kh ngăn nhiều lần nhưng tính tình ông Kh vẫn không thay đổi. Đến nay, bà
nhận thấy các mâu thuẫn không thể giải quyết được, tình cảm vợ chồng không
thể hàn gắn, cuộc sống hôn nhân của vợ chồng không thể kéo dài. Vì vậy, bà đề
nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Kh.
- Về con chung: Quá trình chung sống bà và ông Lương Văn Kh có 03
con chung là cháu Hoàng Thị K - SN: 25/01/2004; cháu Hoàng Thị M - SN:
03/8/2007 và cháu Lương Văn T - SN: 08/10/2009. Khi ly hôn bà yêu cầu được
trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai cháu Hoàng Thị M và Lương Văn T cho đến
khi các cháu đủ 18 tuổi, còn cháu Hoàng Thị K hiện đã trưởng thành, có thể tự
chăm sóc, nuôi sống bản thân nên không yêu cầu. Do đó, bà không yêu cầu Tòa
án giải quyết.
- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng
nuôi con.
- Về tài sản: Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vợ chồng bà L ông
Kh không thỏa thuận được việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Do đó, bà L nộp đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu chia tài sản chung
của vợ chồng bao gồm các tài sản sau:
1. Thửa đất số 74; Tờ bản đồ số 22; Địa chỉ thửa đất: Thôn 12, xã Cư
Kbang, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk. Loại đất: Đất quy hoạch đất ở và đất trồng
cây hàng năm. Chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thửa đất có tứ cận như sau: Phía Tây giáp nhà ông T dài 73m; Phía Bắc
giáp nhà ông B dài 57m; Phía Đông giáp nhà ông K dài 80m; Phía Nam giáp
thửa đất số 73 chưa rõ chủ sở hữu dài: 61m. Diện tích khoảng: 3798,1 m
2
.
Tài sản trên đất và cây trồng gồm: 01 nhà ở kết hợp bếp, Nhà sàn gỗ. Diện
tích khoảng 196,56 m2; 01 Giếng khoan sâu 50m; 01 Cây me thường 08 năm;
01 Cây mãng cầu 03 năm; 04 Cây xoài thường 03 năm.
2. Thửa đất số 211; Tờ bản đồ số 22; Địa chỉ thửa đất: Xã C, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk. Loại đất: Đất rừng.
Thửa đất có tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất ông N; Phía Tây giáp
đường đất; Phía Nam giáp đường đất; Phía Bắc giáp đất ông S.
Diện tích: 73487,5m
2
.
Tài sản trên đất và cây trồng: 1.520 cây điều 07 năm, kinh doanh năm thứ
3 trở đi.
3. Thửa đất số 231; Tờ bản đồ số 101; Địa chỉ thửa đất: Xã C, huyện E,
tỉnh Đắk Lắk. Loại đất: Đất rừng.
Thửa đất có tứ cận như sau: Phía Đông giáp thửa đất số 254; Phía Tây
giáp đường đất; Phía Nam giáp thửa đất số 252; Phía Bắc giáp đường đất. Diện
tích: 9086,3m
2
.
4. Thửa đất số 10; Tờ bản đồ số 109; Địa chỉ thửa đất: Xã C, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk. Loại đất: Đất rừng.
Thửa đất có tứ cận như sau: Phía Đông giáp thửa đất số 107, tờ bản đồ số
106; Phía Tây giáp thửa đất số 18, tờ bản đồ số 109; Phía Nam giáp thửa đất số
3
12, tờ bản đồ số 109; Phía Bắc giáp thửa đất số 335, tờ bản đồ số 106. Diện tích:
20150,6m
2
.
Tài sản khác:
- 01 xe Honda màu trắng hiệu RSX BKS 47P1-324.22; 01 xe Honda màu
đỏ hiệu RSX; 01 xe cày + dàn cày; 01 máy phun thuốc; 01 tủ lạnh trị giá; 01
giường ngủ cũ đã qua sử dụng; 01 Tivi samsung cũ đã qua sử dụng; 01 máy sát
lúa cũ đã qua sử dụng.
Số tiền trước đây bà có khai tại Toà án ông Kh giữ 54.000.000đ là tiền
bán ngô từ năm 2022, tại phiên toà bà xin rút yêu cầu này.
Qua quá trình giải quyết vụ án, bà được biết các thửa đất số 211; Tờ bản
đồ số 22; Thửa đất số 231; Tờ bản đồ số 101 và Thửa đất số 10; Tờ bản đồ số
109; Địa chỉ các thửa đất: Xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk là đất rừng thuộc quyền
quản lý của UBND xã C. Các thửa đất trên do bà L và ông Kh tự ý khai hoang
để sử dụng. Tại thời điểm khai hoang ông bà không biết đó là đất rừng, sau khi
biết UBND xã C đang tiến hành thu hồi đối với các thửa đất trên, nên hiện nay
bà L không yêu Tòa án chia các thửa đất trên và cây trồng trên đất. Còn các tài
sản khác thì yêu cầu Tòa án chia theo quy định của pháp luật.
Bị đơn ông Lương Văn Kh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và tống đạt,
niêm yết các văn bản tố tụng. Tuy nhiên, ông Lương Văn Kh đều vắng mặt ở tất
cả các buổi làm việc và vắng mặt tại phiên tòa. Tòa án nhân dân huyện Ea Súp
đã trực tiếp đến làm việc với ông Lương Văn Kh tại Thôn N, xã C, huyện E, tỉnh
Đắk Lắk trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương, nhưng ông Lương
Văn Kh không hợp tác làm việc. Do đó, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của
ông Lương Văn Kh về việc giải quyết vụ án. Toà án đã tiến hành xác minh tình
trạng hôn nhân của bà L và ông Kh tại nhà thôn trưởng thôn N và hội phụ nữ
thôn để có căn cứ cho việc giải quyết vụ án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, do ông Lương Văn Kh vắng mặt ở tất cả
các buổi làm việc và không hợp tác với Tòa án trong việc giải quyết vụ án, nên
không thống nhất được giá trị tài sản. Do đó, Tòa án đã tiến hành thẩm định và
định giá tài sản theo yêu cầu của bà Hoàng Thị L.
Tại biên bản thẩm định và biên bản định giá tài sản ngày 04 tháng 7 năm
2024 của Hội đồng định giá tài sản đã xác định tài sản chung của vợ chồng bà
Hoàng Thị L và ông Lương Văn Kh như sau:
Thửa đất số 74; Tờ bản đồ số 22; Địa chỉ thửa đất: Thôn N, xã C, huyện
E, tỉnh Đắk Lắk; Diện tích: 3798,1 m
2
; Loại đất: Đất quy hoạch đất ở và đất
trồng cây hàng năm. Chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trị giá
lô đất theo khung giá nhà nước là 17.000 đồng/m
2
là:
3798,1 m
2
đất quy hoạch đất ở và đất trồng cây hàng năm x 17.000
đồng/m
2
= 64.567.700đ.
Tài sản trên đất và cây trồng:
- 01 nhà ở kết hợp bếp xây dựng năm 2016: Nhà sàn gỗ nhóm IV, vách
ván, sàn gỗ nhóm IV, không trần, nền đất, mái ngói. Diện tích: 16,8m x 11,7m =
196,56 m
2
. Trị giá căn nhà theo khung giá nhà nước là 2.396.000 đồng/m
2
.
4
196,56 m
2
x 2.396.000 đồng/m
2
x 0,927 x 60% = 261.946.706đ
- 01 Giếng khoan sâu 50m là 13.000.000đ; 01 Cây me thường 08 năm là
522.700đ; 01 Cây mãng cầu 03 năm là 291.000đ; 04 Cây xoài thường 03 năm là
296.000đ/cây, tổng giá trị 296.000 đồng x 4 = 1.184.000đ.
Tổng giá trị tài sản gắn liền với đất: 261.946.706đ + 13.000.000đ +
522.700đ + 291.000đ + 1.184.000đ = 276.944.406đ.
Tài sản khác:
- 01 xe Honda màu trắng hiệu RSX BKS 47P1-324.22, có giá trị là
15.000.000đ; 01 xe Honda màu đỏ hiệu RSX, có giá trị là 10.000.000đ; 01 xe
cày + dàn cày, có giá trị là 80.000.000đ; 01 máy phun thuốc, có giá trị là
1.000.000đ; 01 tủ lạnh có giá trị là 2.000.000đ. Tổng cộng là 108.000.000đ.
Như vậy, tổng giá trị tài sản chung của vợ chồng mà bà Hoàng Thị L là:
64.567.700đ + 276.944.406đồ + 108.000.000đ = 449.512.106 đồng (Bốn trăm
bốn mươi chín triệu năm trăm mươi hai nghìn một trăm linh sáu đồng).
Đối với 01 giường ngủ cũ đã qua sử dụng; 01 Ti vi Samsung cũ đã qua sử
dụng; 01 máy sát lúa cũ đã qua sử dụng. Theo kiểm tra thực tế và xem xét khấu
hao đối với tài sản nêu trên không còn giá trị. Nên hội đồng định giá không định
giá đối với các tài sản trên.
Quá trình làm việc bà Hoàng Thị L cho biết, các thửa đất số 211; Tờ bản
đồ số 22, địa chỉ thửa đất: Xã C, huyện E, Loại đất: Đất rừng; Diện tích:
73.487,5m
2
. Thửa đất số 231, tờ bản đồ số 101, địa chỉ thửa đất: Xã C, huyện E
Loại đất: Đất rừng; Diện tích: 9.086,3m
2
; thửa đất số 10, Tờ bản đồ số 109, địa
chỉ thửa đất: Xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, Loại đất: Đất rừng, Diện tích:
20.150,6m
2
. Các thửa đất trên do gia đình bà L tự ý khai hoang sử dụng, thời
điểm khai hoang không biết đó là đất rừng. Sau khi được biết UBND xã C đang
tiền hành thu hồi đối với các thửa đất trên thì bà L không yêu cầu chia tài sản là
các thửa đất trên và cây trồng trên đất.
Qua kết quả thẩm định và xác minh ngày 17 tháng 7 năm 2024 tại Ủy ban
nhân dân xã C, huyện E thì được biết các thửa đất trên là đất rừng do Ủy ban
nhân dân xã C quản lý. Ông Kh và bà L đã tự ý khai hoang để sử dụng. Hiện
nay, Ủy ban nhân dân xã C đang tiến hành thu hồi và lập biên bản vi phạm đối
với các hành vi xâm chiếm đất rừng trái phép. Do đó, Ủy ban nhân dân xã C yêu
cầu Tòa án nhân dân huyện Ea Súp không tiến hành đo đạc, định giá tài sản và
giải quyết đối với các thửa đất trên. Do vậy Hội đồng định giá không tiến hành
định giá.
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải ngày 19 tháng 8 năm 2024 nguyên đơn đã được tiếp cận, công khai chứng
cứ thống nhất với chứng cứ đã được tiếp cận, công khai và giữ nguyên ý kiến
như đã bổ sung, không yêu cầu triệu tập thêm đương sự khác đến tham gia phiên
tòa.
Tại phiên tòa, bị đơn đã được Toàn án thông báo hợp lệ nhưng vắng mặt
không có lý do lần thứ hai. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Ea Súp tiến hành xét
xử vắng mặt đối với bị đơn ông Lương Văn Kh.
5
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk
tham gia phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án
và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Hoàng
Thị L được ly hôn với ông Lương Văn Kh.
- Về con chung: Giao cháo Hoàng Thị M - SN: 03/8/2007 và Lương Văn
T - SN: 08/10/2009 cho bà Hoàng Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các
cháu đủ 18 tuổi. Bà L không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng nuôi con chung nên ông
Kh không phải cấp dưỡng nuôi con cho bà L. Còn cháu Hoàng Thị K hiện đã
trưởng thành, có thể tự chăm sóc, nuôi sống bản thân, nên không xem xét giải
quyết.
- Về tài sản chung: Cần chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung của bà
Hoàng Thị L theo quy định của pháp luật và chia cho bà L ngôi nhà nằm trên
một phần thửa đất số 74, tờ bản đồ số 22; 01 xe Honda màu trắng hiệu RSX
BKS 47P1-324.22, có giá trị là 15.000.000đ; 01 tủ lạnh có giá trị là 2.000.000đ.
Chia cho ông Kh 01 phần thửa đất còn lại của thửa đất số 74, tờ bản đồ số
22; 01 xe Honda màu đỏ hiệu RSX, có giá trị là 10.000.000đ; 01 xe cày + dàn
cày, có giá trị là 80.000.000đ; 01 máy phun thuốc, có giá trị là 1.000.000đ.
Bà L có trách nhiệm trả tiền chênh lệch khi chia tài sản chung cho ông
Kh.
Về số tiền bà L khai ông Kh giữ 54.000.000đ là tiền bán ngô từ năm
2022, tại phiên toà bà L rút yêu cầu này nên đề nghị không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của
các đương sự được thẩm tra tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Hoàng Thị L và ông Lương Văn Kh có quan hệ vợ
chồng. Do mâu thuẫn trong quá trình chung sống, nên bà L khởi kiện yêu cầu
được ly hôn với ông Lương Văn Kh, yêu cầu chia tài sản chung khi ly hôn và
tranh chấp về nuôi con theo quy định của pháp luật. Căn cứ theo quy định tại
khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật
tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình,
Tòa án nhân dân huyện Ea Súp thụ lý giải quyết là đúng theo quy định của pháp
luật
Quá trình giải quyết vụ án, ông Lương Văn Kh đã được Tòa án tống đạt
đầy đủ và hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng trong quá trình làm việc ông Lương
Văn Kh không hợp tác và vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc tại Tòa án. Căn
cứ vào điểm b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến
hành xét xử vắng mặt ông Lương Văn Kh.
6
[2] Về nội dung:
+ Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử nhận thấy bà Hoàng Thị L và
ông Lương Văn Kh kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện chung sống với nhau
có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, tỉnh Cao Bằng vào ngày
03 tháng 4 năm 2009, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, phù hợp theo quy định
tại Điều 8 và 9 Luật hôn nhân và gia đình. Quá trình chung sống do bất đồng
quan điểm sống, thường xuyên xảy cãi vã. Ông Kh còn chửi bới, đánh đập bà L
dẫn đến nhiều lần bà L phải đi ở nhờ nhà hàng xóm. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà
L và ông Kh là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung
không thể kéo dài. Căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét
xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, xử cho bà Hoàng Thị L được ly
hôn với anh Lương Văn Kh.
+ Về con chung: Quá trình chung sống bà L và ông Lương Văn Kh có 03
con chung là cháu Hoàng Thị K - SN: 25/01/2004; cháu Hoàng Thị M - SN:
03/8/2007 và cháu Lương Văn T - SN: 08/10/2009. Khi ly hôn bà L yêu cầu Tòa
án giải quyết cho bà được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai cháu Hoàng Thị M
và Lương Văn T cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Bà L không yêu cầu ông Kh
cấp dưỡng nuôi con. Còn cháu Hoàng Thị K hiện đã trưởng thành, có thể tự
chăm sóc, nuôi sống bản thân, nên bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Xét về điều kiện và nguyện vọng của 02 cháu Hoàng Thị M và cháu
Lương Văn T muốn được ở với bà Hoàng Thị L nên cần chấp nhận giao 02 cháu
Hoàng Thị M và Lương Văn T cho bà Hoàng Thị L trực tiếp nuôi dưỡng cho
đến khi các cháu đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu ông Kh không phải cấp
dưỡng nuôi con, yêu cầu này là tự nguyện nên ông Kh không phải cấp dưỡng
nuôi con.
Đối với cháu Hoàng Thị K hiện nay đã trưởng thành, khỏe mạnh, tự lao
động nuôi sống bản thân, nên bà L không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
+ Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, bà L và ông Kh
không thỏa thuận được việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân. Nên bà Hoàng Thị L nộp đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu chia tài sản
chung của vợ chồng đã kê khai ở trên theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa do vắng mặt ông Lương
Văn Kh, nên không thống nhất được việc phân chia tài sản chung. Căn cứ theo
quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án tiến hành phân chia tài
sản chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật cho hai bên. Do hai bên
đều có công sức và nghĩa vụ đóng góp tạo dựng khối tài sản chung như nhau nên
cần chia đôi.
Xét thấy ngôi nhà mà bà Hoàng Thị L và ông Lương Văn Kh đang ở
không thể chia làm đôi cho mỗi bên một nửa, nên bên nhận nhà và một phần đất
tại Thửa đất số 74; Tờ bản đồ số 22; Địa chỉ thửa đất: Thôn N, xã C, huyện E,
tỉnh Đắk Lắk sẽ thanh toán tiền chênh lệch cho bên kia. Xét yêu cầu và nguyện
vọng của bà L có nhu cầu nhận nhà để nuôi con và một phần thửa đất đang có
7
nhà trên đó. Căn cứ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình về việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ, căn cứ theo nhu cầu thực tế và điều
kiện về chỗ ở của cả hai bên và căn cứ khoản 6 Điều 7 của Thông tư liên tịch số
01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016. HĐXX
nhận thấy cần giao lại ngôi nhà và tạm giao phần đất có ngôi nhà và cây trồng
trên phần đất cho bà Hoàng Thị L quản lý, sử dụng là hợp lý. Đối với phần đất
còn lại tại Thửa đất số 74; Tờ bản đồ số 22; Địa chỉ thửa đất: Thôn N, xã C,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk sẽ tạm giao cho ông Lương Văn Kh quản lý, sử dụng.
Về các tài sản khác:
- Đối với 01 xe Honda màu trắng hiệu RSX BKS 47P1-324.22, có giá trị
là 15.000.000đ; 01 tủ lạnh có giá trị là 2.000.000đ cần giao cho bà Hoàng Thị L
quản lý, sử dụng.
- Đối với 01 xe Honda màu đỏ hiệu RSX, có giá trị là 10.000.000đ; 01 xe
cày + dàn cày, có giá trị là 80.000.000đ; 01 máy phun thuốc, có giá trị là
1.000.000đ, cần giao cho ông Lương Văn Kh quản lý, sử dụng.
Đối với 01 giường ngủ cũ đã qua sử dụng; 01 Ti vi Samsung cũ đã qua sử
dụng; 01 máy sát lúa cũ đã qua sử dụng. Theo kiểm tra thực tế và xem xét khấu
hao đối với tài sản nêu trên không còn giá trị. Nên HĐXX không tiến hành chia
đối với các tài sản trên.
Đối với số tiền bà L khai ông Kh giữ 54.000.000đ là tiền bán ngô từ năm
2022, tại phiên toà bà L rút yêu cầu này nên HĐXX đình chỉ không xem xét giải
quyết.
[3] Về chi phí thẩm định, định giá đất: Buộc hai bên phải chịu chi phí
thẩm định và định giá đất, do bà Hoàng Thị L đã nộp tạm ứng tiền chi phí thẩm
định và định giá đất là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) nên ông Lương Văn Kh
phải trả cho bà Hoàng Thị L số tiền là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm
nghìn đồng).
[4] Về án phí: Nguyên đơn bà Hoàng Thị L và bị đơn ông Lương Văn
Kh thuộc trường hợp là hộ nghèo được miễn toàn bộ tiền tạm ứng án phí, án phí
quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 12 và Điều 14 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 1, 2 Điều 147; Điều 203; khoản 1 Điều 228; Điều 235; điểm b khoản 1
Điều 238; Điều 266; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 1 Điều 57 và Điều 59
Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ
8
Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Hoàng Thị L.
[1] Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Hoàng Thị L được ly hôn với ông
Lương Văn Kh. Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án ly hôn của Tòa
án có hiệu lực pháp luật.
[2] Về con chung: Giao cháu Hoàng Thị M - SN: 03/8/2007 và cháu
Lương Văn T - SN: 08/10/2009 cho bà Hoàng Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Đối với cháu Hoàng Thị K hiện đã
trưởng thành, có thể tự chăm sóc, nuôi sống bản thân nên Tòa án không xem xét
giải quyết.
Ông Hoàng Văn Kh không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom
con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con thì chị Hoàng Thị L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm
nom con chung của ông Kh. Chị Hoàng Thị L cùng các thành viên trong gia
đình không được ngăn cản ông Kh đến thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con.
Về cấp dƣỡng nuôi con: Ông Lương Văn Kh không phải cấp dưỡng
nuôi con cho bà Hoàng Thị L.
[3] Về tài sản chung:
- Tạm giao cho bà Hoàng Thị L được quản lý, sử dụng một phần Thửa đất
số 74; Tờ bản đồ số 22; Địa chỉ thửa đất: Thôn 12, xã Cư Kbang, huyện Ea Súp,
tỉnh Đắk Lắk. Thửa đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có
vị trí tứ cận như sau:
Phía Tây giáp Thửa đất chia cho anh Kh dài 73m; Phía Bắc giáp Thửa đất
của ông B dài 20m; Phía Đông giáp nhà ông K dài 80m; Phía Nam giáp thửa đất
số 73 chưa rõ chủ sở hữu dài: 20m. Diện tích tạm tính là 1.530m
2
.
Trị giá tạm tính là 1.530m
2
x 17.000đ/ m2 = 26.010.000đ.
Trên đất có 01 ngôi nhà ở kết hợp bếp xây dựng năm 2016: Nhà sàn gỗ
nhóm IV, vách ván, sàn gỗ nhóm IV, không trần, nền đất, mái ngói. Diện tích:
196,56 m
2
. Trị giá 261.946.706đ. Và các tài sản trên đất bao gồm: 01 Giếng
khoan sâu 50m, trị giá 13.000.000đ. 01 Cây me thường 08 năm, trị giá
522.700đ; 01 Cây mãng cầu 03 năm, trị giá 291.000đ; 04 Cây xoài thường 03
năm, trị giá 1.184.000đ .
Giao cho bà Hoàng Thị L được sở hữu 01 xe Honda màu trắng hiệu RSX
BKS 47P1-324.22, có giá trị là 15.000.000đ; 01 tủ lạnh có giá trị là 2.000.000đ.
Tổng giá trị tài sản bà Hoàng Thị L nhận được là: 319.954.406 đồng (Ba
trăm mười chín triệu chín trăm năm mươi bốn nghìn bốn trăm linh sáu đồng).
- Tạm giao cho ông Lương Văn Kh được quản lý, sử dụng phần còn lại
của Thửa đất số 74; Tờ bản đồ số 22; Địa chỉ thửa đất: Thôn 12, xã Cư Kbang,
huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk. Chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Có vị trí tứ cận như sau:
9
Phía Tây giáp nhà ông T, cạnh dài 73m; Phía Bắc giáp nhà ông B dài
37m; Phía Đông giáp đất chia cho chị L dài 73m; Phía Nam giáp thửa đất số 73
chưa rõ chủ sở hữu dài: 41m. Diện tích tạm tính là 2.268,1m
2
.
Trị giá tạm tính là 2.268,1m
2
x 17.000đ/m2 = 38.557.700đ
Giao cho ông Lương Văn Kh được sở hữu 01 xe Honda màu đỏ hiệu
RSX, có giá trị là 10.000.000đ; 01 xe cày + dàn cày, có giá trị là 80.000.000đ;
01 máy phun thuốc, có giá trị là 1.000.000đ.
Tổng giá trị tài sản ông Lương Văn Kh nhận được là: 129.557.700đ (Một
trăm hai mươi chín triệu năm trăm năm mươi bảy nghìn bảy trăm đồng).
Buộc bà Hoàng Thị L phải trả lại cho ông Lương Văn Kh số tiền chênh
lệch khi chia tài sản chung là 95.198.353đ (Chín mươi lăm triệu một trăm chín
mươi tám nghìn ba trăm năm mươi ba nghìn đồng).
Đình chỉ không xem xét giải quyết đối với số tiền 54.000.000đ là tiền bán
ngô do bà L rút yêu cầu.
[4] Về chi phí thẩm định, định giá đất: Buộc hai bên phải chịu chi phí
thẩm định và định giá đất, do bà Hoàng Thị L đã nộp tạm ứng tiền chi phí thẩm
định và định giá đất là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) nên ông Lương Văn Kh
phải trả cho bà Hoàng Thị L số tiền là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm
nghìn đồng).
[5] Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn
toàn bộ án phí HNGĐ và án phí DSST cho nguyên đơn và bị đơn.
[6] Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo
quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều
2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều
6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKS huyện Ea Súp; (Đã ký)
- Tòa án tỉnh;
- Chi cục THADS huyện E;
- UBND xã C, huyện T, tỉnh Cao Bằng
- Lưu hồ sơ vụ án. Phạm Trung Kiên
Tải về
Bản án số 28/2024/HNGĐ_ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 28/2024/HNGĐ_ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm