Bản án số 277/2024/DS-PT ngày 04/11/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 277/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 277/2024/DS-PT ngày 04/11/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Kiên Giang
Số hiệu: 277/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp QSDĐ - Đỗ Viết Ch - Võ Kim H
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 277/2024/DS-PT
Ngày: 14-11-2024
Tranh chấp quyền sử dụng
đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Bá Kha
Các Thẩm phán: Ông Lê Quang Tấn
Ông Vũ Thế Mạnh
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Mai - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang tham gia phiên tòa:
Ông Trang Minh Tú - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 205/2024/TLPT-DS ngày 04 tháng 10 năm
2024, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
Do bản án dân sự thẩm số 96/2024/DS-ST ngày 21/6/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 240/2024/QĐ-PT ngày
09 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
*Nguyên đơn: Ông Đỗ Viết C, sinh năm 1977
Địa chỉ: Tổ D ấp G, xã G, TP P, tỉnh Kiên Giang.
*Bị đơn:Võ Kim H, sinh năm 1983
Địa chỉ: Tổ G ấp G, xã G, TP P, tỉnh Kiên Giang.
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Lê Thị Đ, sinh năm 1941 (Đã chết);
2. Ông Dương Vũ T, sinh năm 1982 (Chồng bà H)
Cùng địa chỉ: Ấp G, xã G, TP P, Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của Võ Kim H và ông Dương Vũ T: Ông
Đào Ngọc Q, sinh năm 1993. Địa chỉ liên hệ: 254 đường N, phường D, thành
phố P, tỉnh Kiên Giang. (Theo văn bản ủy quyền ngày 16/8/2024).
3. UBND xã G, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Hữu K Chức vụ: Chủ tịch
Địa chỉ: Ấp G, xã G, TP P, tỉnh Kiên Giang.
4.Đậu Thị H1, sinh năm 1979 (Vợ ông C);
Địa chỉ: Tổ D, ấp G, xã G, TP P, tỉnh Kiên Giang.
(Ông Đỗ Viết Công Đào Ngọc Q có mặt, còn lại vắng mặt)
- Người kháng cáo: Bị đơn Kim H người quyền lợi nghĩa
vụ liên quan ông Dương Vũ T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
*Theo đơn khởi kiện, bản tkhai quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn
ông Đỗ Viết C trình bày:
Nguồn gốc phần đất hiện một phần tranh chấp của bà Lê Thị Đ, Đ
được UBND G cấp theo chtrương di dân từ Bãi Dài về khu vực Xóm mới.
Năm 2007 ông chuyển nhượng lại của Đ bằng giấy tay, số tiền 45.000.000đ (Đã
thanh toán xong), diện tích 219,1m
2
(Ngang mặt tiền 5m, ngang mặt hậu 5,4m x
dài 39,18m) tọa lạc ấp G, Gành Dầu theo trích đo bản đồ khu vực Xóm mới của
xã.
Xung quanh đất được rào bằng trụ bê tông, trên đất trồng toàn bộ cừ hết
đất. Do ông C không ở trực tiếp tại khu đất và trên đất trồng xả cừ che hết đất và
phía H giáp ranh đất đã phá bỏ hàng rào lấn chiếm lúc nào ông không biết.
Khi phát hiện thì H đã xây dựng trên đất một căn nhà tạm diện tích qua đo
đạc thực tế là 31,9m².
Nay yêu cầu giải quyết buộc H trả diện tích đất lấn chiếm 31,9m² (Đo
đạc thực tế), do đất này nằm trong phần đất ông mua lại của bà Đ diện tích
219,1m² (Thực tế còn 160,4m²) thuộc thửa số 66 tờ bản đồ số 11 tọa lạc ấp G, xã
G, thành phố P, tỉnh Kiên Giang
*Bị đơn Kim H trình bày: Vào tháng 10/2003 khi một số hộ dân bị
giải tỏa giao đất cho dự án ấp G (Thuộc B) do không đất để nên UBND
xã G mượn đất của cha mẹ bà (Ông Võ Thành T1, bà Trần Thị T2), mượn miệng
không giấy t, người ợn ông Long T3 (Chủ tịch xã), ông Nguyễn
Hữu L (Chủ tịch Mặt trận xã) lúc bấy giờ. Mượn diện tích bao nhiêu không biết
nhưng, xã tạm cấp cho mỗi hộ ngang 5m x dài 10m cách tim lộ 15m (Lộ G - D)
trong đó Thị Đ. Về nguồn gốc đất do cha mẹ khai khẩn vào năm 1993,
diện tích khoảng 1000m², sau đó ông Nguyễn Văn L1 (Hiện đã mất) chuyển
nhượng thêm khoảng 2000m² nữa, tổng cộng 3000m
2
tọa lạc ấp G, G,
huyện P (N là thành phố P).
Diện tích đất sau khi cho ợn đất thì đất còn lại 2023,1m² thuộc thửa
số 33, tờ bản đsố 11 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV
615772 do UBND thành phố P cấp ngày 04/7/2022 đứng tên Võ Kim H.
Về nguồn gốc diện tích đất hiện ông Đỗ Viết Chiến tranh C1 nguồn gốc
của gia đình bà, như đã trình bày trên là do mượn đất tạm cấp cho 07 hộ
do tạm thời chưa đất (Hiện những hộ này đã bán đất dời đi nơi khác).
mượn đất tạm cấp cho 07 hộ, ngang 05m x dài 10m, tổng 350m
2
tuy nhiên
trong qtrình sử dụng thì những hộ dân này đã lấn thêm diện tích trên 900m².
Diện tích đất tranh chấp qua đo đạc thực tế 31,9m² hiện tại do gia đình
đang quản lý, sử dụng trên đất xây một căn nhà tạm tiền chế (Nền móng,
vách thiếc, mái thiếc). Nay không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
toàn bộ diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc của gia đình khai khẩn từ
trước đến nay.
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Dương T ý kiến: Thống nhất lời trình bày của vợ Kim H,
ngoài ra không có ý kiến gì thêm.
2. UBND xã G, thành phố P. Người đại diện theo pháp luật, ông Phạm
Hữu K Chức vụ: Chủ tịch (Có đơn xin vắng mặt), ý kiến: đề nghị Tòa án
3
căn cứ vào Văn bản số 81/UBND ngày 02/6/2023 của UBND G gửi cho Tòa
án làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án
3. Bà Lê Thị Đ (Hiện đã chết) tuy nhiên Tòa án có làm việc với bà và ghi
nhận ý kiến: Vào năm 2003 Thị Đ được chủ trương của di dời dân về
khu vực Xóm mới ấp G, G sinh sống, năm 2007 làm giấy tờ sang nhượng
nhà, đất cho ông C phần đất ngang 5m x dài 39.18m tại tổ G ấp G, G, thành
phố P, phần đất bán cho ông C không liên quan đến Kim H, việc mua
bán giữa bà và ông C đã hoàn tất không có tranh chấp gì.
4. Đậu Thị H1 vợ ông C đơn xin vắng mặt ý kiến: Thống
nhất lời trình bày của ông C không bổ sung gì thêm.
*Tại bản án dân sự thẩm số 96/2024/DS-ST ngày 21/6/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Viết C đối với bà Võ Kim H về
việc tranh chấp quyền sử dụng đất.
2. Buộc Kim H ông Dương T phải phá dỡ, tháo dỡ, di dời
công trình xây dựng trên phần đất 31,9m
2
giao trả phần đất diện tích 31,9m
2
các cạnh, điểm, tọa độ theo tờ trích đo địa chính thửa đất tranh chấp s
05/2022 ngày 10/01/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố P
Chứng thư định giá số 29/CT-KGGL ngày 03/5/2024 của Công ty TNHH
MTV B (Đính kèm Tờ trích đo);
3. Ghi nhận sự tự nguyện của ông ĐViết C htrợ cho Kim H,
ông Dương Vũ T số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để di dời công trình xây
dựng ra khỏi đất tranh chấp.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và báo quyền
kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 24/6/2024, bị đơn Kim H người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan ông Dương Vũ T đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án dân sự sơ thẩm
theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn
Kim H và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Dương Vũ T là ông Đào
Ngọc Q thay đổi nội dung kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm.
Nguyên đơn ông Đỗ Viết C không kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét
xử giữ nguyên bản án thẩm số 96/2024/DS-ST ngày 21/6/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang nêu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
phiên tòa việc chấp hành pháp luật của các bên đương sự, từ khi thụ lý vụ án
đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đã thực hiện chấp hành đúng theo
các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; chấp nhận kháng cáo của bị đơn
Kim H người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Dương T. Hủy
bản án dân ssơ thẩm số 96/2024/DS-ST ngày 21/6/2024 của Tòa án nhân dân
4
thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Giao hồ vụ án cho cấp thẩm để xét
xử lại theo thủ tục chung.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra
công bố công khai tại phiên tòa căn cứ kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét
đầy đủ, toàn diện các chứng cứ của nguyên đơn, bị đơn những người tham
gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của bị đơn Kim H người
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Dương Vũ T về nội dung, quyền kháng cáo,
thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định tại các Điều 271, 272,
273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải
quyết kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm những người vắng mặt đều có đơn xin xét xử vắng
mặt nên áp dụng khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét
xử vắng mặt theo quy định.
[2] Về nội dung kháng cáo của bản án sơ thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Kim H người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan ông Dương Vũ T ông Đào Ngọc Q yêu cầu hủy bản
án thẩm do đưa thiếu người tham gia tố tụng là người kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng của bà Đ; những người con còn lại của ông T1, bà T2 và hai vợ
chồng em chồng của bà H đang ở trên đất tranh chấp.
[3] Hội đồng xét xử xét thấy:
Về nội dung tranh chấp: trước năm năm 2003, vị trí đất tranh chấp đất
do Nhà nước quản lý, không người canh tác, sửng dụng. Năm 2003, Nhà
nước di dời các hộ dân đang sử dụng đất nằm trong ranh giới rừng Quốc gia P
quản tại khu vực Bãi Dài thuộc ấp G, G. Thời điểm này trên địa bàn
chưa có khu tái định cư nên UBND xã chọn khu đất ở Xóm M tại tổ G, ấp G cấp
cho mỗi hộ một nền rộng 5m dài 15m, trong đó có hộ bà Lê Thị Đ. Sau khi nhận
đất, Đ cất một ngôi nhà, do diện tích đất nhỏ nên Đ mở rộng thêm phần
đất phía sau đất do Nhà nước quản để trồng trọt và chăn nuôi. Đến năm
2007, Nhà nước lập bản đồ địa chính thì Đ đăng khai đo đạc diện tích
219,022m
2
. Đến ngày 08/10/2007, Đ viết giấy tay chuyển nhượng toàn bộ
diện tích đất này cho ông Đỗ Viết C quản lý, sử dụng.
Nguyên đơn ông Đỗ Viết C cho rằng diện tích đất tranh chấp giữa ông Đỗ
Viết C Kim H do ông C nhận chuyển nhượng của Thị Đ vào
năm 2007. Nguồn gốc đất, vào năm 2003 Đ được UBND G cấp diện tích
đất rộng 5m dài 15m. Trong quá trình sử dụng Đ khai khẩn mở rộng thêm
diện tích đo đạc thực tế 219,1m
2
. Ngày 27/8/2007, vị trí đất này được UBND
G lập trích đo bản đồ địa chính và sau đó Đ đã chuyển nhượng cho ông C
toàn bộ diện tích này. Sau khi nhận đất, ông C có cặm ranh, toàn bộ diện tích đất
ông C không cất nhà trồng cây cừ. Quá trình quản lý, sử dụng ông C
phát hiện H lấn một phần diện tích 31,1m
2
nên tranh chấp.
H thì cho rằng đất này của gia đình bà khai khẩn rồi cho UBND
G mượn đất cấp tạm cho các hộ dân được di dời từ Bãi Dài đến; gia đình H
5
đã nhiều năm khiếu nại trong đó hộ Thị Đ; phần diện tích đất tranh
chấp hiện nay đều là đất của gia đình bà.
Xét thấy rằng:
Trong qtrình giải quyết vụ án, Đ người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan chết, nhưng tòa án cấp thẩm không đưa người kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng của bà Đ vào tham gia tố tụng.
Bị đơn Kim H cho rằng nguồn gốc đất tranh chấp của cha mẹ bà
ông T1 T2 khai khẩn, tuy nhiên tòa án cấp thẩm không đưa hết
những người con của ông T1 và bà T2 vào tham gia tố tụng là thiếu sót.
Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm ông Đào Ngọc Q xác định trên phần đất
tranh chấp hiện tại một căn nhà gia đình em chồng của H đang ở, em
chồng H tên ơng L2 Dương Thị Xuân T4, căn nhà trên đất tranh
chấp trước đó H cất tạm nhưng đến năm 2014 tông L2 T4 dựng lại.
Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người đang ở trên đất tranh chấp vào tham
gia tố tụng với tư cách người quyền lợi nghĩa vụ liên quan thiếu
người tham gia tố tụng.
Việc Tòa án cấp thẩm đưa thiếu người tham gia tố tụng như trên dẫn
đến việc giải quyết vụ án không được toàn diện, triệt để. Sai sót nêu trên của tòa
án cấp thẩm mà tòa án phúc thẩm không thể khắc phục được. vậy, Hội
đồng xét xử xét thấy cần thiết phải hủy toàn bộ bản án thẩm của tòa án nhân
dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang để giải quyết lại vụ án theo quy định
của pháp luật.
[4] Từ những phân tích nhận định nêu trên, trong thảo luận nghị án,
Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát,
chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn Kim H và người quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan ông Dương Vũ T, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số
96/2024/DS-ST ngày 21 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú
Quốc, tỉnh Kiên Giang. Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Phú
Quốc, tỉnh Kiên Giang để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.
[5] Về chi phí tố tụng: Được xác định khi vụ án đưa ra giải quyết lại.
[6] Về án phí sơ thẩm: Được xác định khi vụ án đưa ra giải quyết lại.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 308 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015;
- Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
6
1. Hủy Bản án sơ thẩm số 96/2024/DS-ST ngày 21/6/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
giải quyết sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
2. Về chi phí tố tụng: Được xác định khi vụ án đưa ra giải quyết lại.
3. Về án phí sơ thẩm: Được xác định khi vụ án đưa ra giải quyết lại.
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu
Kim H ông Dương T được trả lại số tiền tạm ứng án phí đã
nộp theo biên lai thu số 0000414 0000415 cùng ngày 15 tháng 7 năm 2024
của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Kiên Giang;
- TAND TP Phú Quốc;
- THA TP Phú Quốc;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Bá Kha
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa
7
Trần Bá Kha
Tải về
Bản án số 277/2024/DS-PT Bản án số 277/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 277/2024/DS-PT Bản án số 277/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất