Bản án số 27/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Hòa Bình về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 27/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 27/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 27/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 27/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Hòa Bình về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hòa Bình |
Số hiệu: | 27/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Anh T kiện yêu cầu anh M trả số tiền 380tr đồng theo hợp đồng vay tài sản. Anh M không đồng ý vì cho rằng không vay tiền của anh T, hợp đồng anh T đưa ra là hợp đồng giả, bị cắt ghép từ hợp đồng khác. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HOÀ BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Kim Trường
Ông Đinh Trường Sơn
Bà Hoàng Ngọc Liễu
- Thư ký phiên toà: Bà Phan Thị Thuỳ Linh - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Hòa Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hoà Bình: Ông Phạm Văn
Minh – Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 15 tháng 5 năm 2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 22/2025/TLPT-DS ngày
27/3/2025 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Do bản án sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 20/01/2025 của Tòa án nhân
dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử phúc thẩm số 25/2025/QĐ-PT ngày 18 tháng 4 năm 2025, giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1999; địa chỉ: Tổ dân phố Tân
Bình, thị trấn X, huyện C, Thành phố Hà Nội, có mặt.
2. Bị đơn: Anh Nghiêm Văn M, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn TB, xã TC,
huyện L, tỉnh Hòa Bình, có mặt.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Hải Y, sinh
năm 1974; địa chỉ: Thôn TB, xã TC, huyện L, tỉnh Hòa Bình, vắng mặt, có đơn
đề nghị xét xử vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn anh Nguyễn Văn T
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÒA BÌNH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 27/2025/DS-PT
Ngày 15-5-2025
V/v tranh chấp hợp đồng
vay tài sản
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đề ngày 24/01/2024, quá trình giải quyết vụ án và
tại phiên tòa nguyên đơn anh Nguyễn Văn T trình bày:
Anh Nguyễn Văn T quen biết với anh Nghiêm Văn M vào khoảng tháng
04/2022 trên mạng xã hội Blued. Sau khi quen biết, anh M giới thiệu là Hiệu
phó trường học và có kinh doanh bất động sản. Qua một vài lần gặp gỡ, anh M
có hỏi vay T một khoản tiền để đầu tư bất động sản, anh T đồng ý. Khoảng 08
giờ tối ngày 05/06/2022, T mang theo hợp đồng vay tiền số 01/2022/HĐVT
được đánh máy sẵn và hẹn gặp anh M tại điểm xe bus Miếu Môn. Sau khi gặp
nhau, anh M chở T bằng xe máy đến nhà nghỉ Thanh Bình, tại đây, hai bên ký
hợp đồng vay. Hợp đồng được lập thành 02 bản, mỗi bản gồm 02 trang được in
02 mặt trên giấy A4, hai bên chỉ ký phần cuối của hợp đồng và điểm chỉ, không
ký trang đầu tiên, anh M yêu cầu T ghi chữ “mặt trước” và “mặt sau” vào hợp
đồng. Số tiền anh T cho anh M vay là 380.000.000 đồng, thời hạn vay là 06
tháng từ 05/6/2022 đến 05/12/2022, lãi suất 12%/năm, thanh toán tiền gốc và lãi
vào cuối kỳ. Anh M đã nhận đủ số tiền 380.000.000 đồng và ra về vào hồi 21
giờ 30 phút cùng ngày.
Ngày 08/11/2022 T có vay anh M 1.000.000 đồng, thời hạn vay 03 ngày
từ 08/11/2022 đến ngày 11/11/2022, không lãi suất. Hợp đồng này cũng do T tự
soạn thảo và mang đến cho anh M ký. Số tiền này đến nay T vẫn chưa thanh
toán cho anh M do anh M chưa yêu cầu.
Sau nhiều lần yêu cầu anh M trả nợ nhưng anh M vẫn cố tình không trả
mà luôn nói với T rằng anh M bị lừa, không vay không nợ. Anh T đã gửi đơn
đến Công an huyện C yêu cầu giải quyết, làm rõ sự việc. Ngày 24/01/2024 anh
T khởi kiện yêu cầu ông M phải trả tổng số tiền 517.104.833 đồng, trong đó: nợ
gốc 380.000.000 đồng, lãi trên nợ gốc 22.800.000 đồng, lãi trên nợ gốc quá hạn
là 112.063.562 đồng, lãi trên nợ lãi chưa trả là 2.241.271 đồng.
Về những điểm nhầm lẫn trong hợp đồng số 01/2022 ngày 05/6/2022 và
hợp đồng số 01/2022 ngày 08/11/2022, anh T cũng đã nhận ra vấn đề khi ký hợp
đồng nhưng không thực hiện việc sửa lại hợp đồng cho phù hợp.
Tại phiên tòa sơ thẩm, anh T yêu cầu anh M phải trả số tiền 470.000.000
đồng, trong đó 380.000.000 đồng là nợ gốc và 90.000.000 đồng tiền lãi.
Bị đơn anh Nghiêm Văn M trình bày:
Ngày 06/11/2022 anh M quen T vào qua mạng xã hội Blued. T là người
chủ động nhắn tin làm quen với anh M trước. Lúc đó anh M có giới thiệu với T
3
là Phó Hiệu trưởng trường học và đang đưa đoàn đi thể thao. T có nói đang gặp
khó khăn về tài chính, mẹ bị ung thư đã chết, bố đi làm xa, một mình nuôi em
gái ăn học, muốn nhờ anh M giúp đỡ về tài chính.
Đến ngày 08/11/2022, T tiếp tục nhắn tin cho anh M qua mạng xã hội
Blued và tiếp tục hỏi vay tiền anh M, anh M bảo nhiều không có đâu. T hẹn gặp
anh M ở Miếu Môn, anh M đồng ý. Khoảng 09 giờ cùng ngày, T gửi số điện
thoại cho anh M, đến 09 giờ 30 phút thì hai bên gặp nhau ở Miếu Môn. Anh M
chở T đi uống nước nhưng không có quán nào, sau đó bảo T vào quán phở vừa
ăn vừa nói chuyện. Trong quá trình ăn uống, T tiếp tục trình bày về hoàn cảnh
gia đình, anh M cũng nói chỉ giúp được 1.000.000 đồng, có thì trả không có thì
thôi. T đồng ý và đưa cho anh M 01 nhẫn bạc cùng 01 tờ giấy có nội dung viết
sẵn nhưng anh M không lấy, cũng không đọc và ký vào tờ giấy đó. T tiếp tục
bảo viết giấy vay tiền, anh M bảo không cần, sau đó T đưa anh M vào nhà nghỉ
cách Miếu Môn khoảng 300m để vay tiền. Do lúc đó T chủ động nên anh M
không nhớ đó là nhà nghỉ nào. Đến khoảng 10 giờ, T đưa cho anh M bản hợp
đồng để trống phần thông tin cá nhân, T bảo anh M cung cấp thông tin để ghi
vào hợp đồng, ký tên và điểm chỉ vào giấy. Hợp đồng vay tiền, bút, mực điểm
chỉ đều do T chuẩn bị từ trước. Hợp đồng được lập thành 02 bản, gồm 02 tờ giấy
A4, được in mỗi tờ một mặt. Sau đó cả hai ra khỏi nhà nghỉ, T đi trước, anh M
đi sau T khoảng 05 phút. Khi ra về anh M nghĩ lại thấy không yên tâm nên gọi
điện thoại cho T để lấy lại bản hợp đồng mà T đã cầm. T hẹn anh M xuống nhà
máy bê tông X để gặp nhưng khi anh M xuống đến nơi thì gọi điện thoại cho T
không được. Về nhà anh M có nhắn tin gọi điện cho T nhiều lần nhưng T vẫn
không trả lời.
Cuối tháng 11/2022 T mới kết bạn với anh M, gửi bản ảnh hợp đồng cho
anh M và từ đó gán cho anh M số nợ 380.000.000 đồng. Thấy hợp đồng ghi
ngày 05/6/2022, anh M có nhắn tin qua lại yêu cầu T chấm dứt hành vi lừa đảo
nhưng T lại tố cáo anh M đến Cơ quan công an huyện C. Ngày 26/4/2023 T tiếp
tục nhắn tin đe dọa gây ảnh hưởng đến uy tín của anh M.
Anh M khẳng định không có việc vay T số tiền 380.000.000 đồng vào
ngày 05/6/2022 bởi thời điểm đó anh M chưa quen T. Ngày 05/6/2022 cũng là
ngày anh M đi công tác cùng các thầy cô giáo trong khối Tiểu học và Trung học
cơ sở tại Nghệ An từ ngày 03/6/2022 đến ngày 05/6/2022, khoảng 23 giờ đêm
ngày 05/6/2022 anh M mới về đến nhà.
Hợp đồng số 01/2022 ngày 05/6/2022 mà T cung cấp cho Tòa án có
nhiều điểm bất hợp lý: Thời hạn vay là 06 tháng từ 05/6/2022 đến 05/12/2022
nhưng tại mục 2, Điều 3 của hợp đồng ghi “05/12/2023”; mặt trước của hợp
4
đồng không có chữ ký nháy của anh M; hợp đồng có chữ ký của anh M nhưng
không ghi nội dung anh M đã nhận đủ số tiền 380.000.000 đồng. Cả hai hợp
đồng ngày 05/6/2022 và 08/11/2022 đều do T soạn, ở trang có phần chữ ký chỉ
ghi bên A và bên B chứ không phải ghi bên vay và bên cho vay. Anh M cho
rằng việc T lập hợp đồng ngày 08/11/2022 thành 02 bản, mỗi bản 02 tờ được in
chỉ một mặt là chiêu trò của T khiến anh M ký tên bên B của 02 bản hợp đồng,
sau đó in nội dung anh M vay số tiền 380.000.000 đồng vào mặt giấy để trắng ở
tờ giấy có chữ ký của anh M.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Hải Y trình bày:
Chị Y cho rằng chồng chị - anh M không vay số tiền 380.000.000 đồng
từ anh T. Từ năm 2022 đến nay, gia đình chị không sử dụng số tiền lớn như vậy
vào việc gì, vợ chồng anh chị đều là giáo viên, thuộc diện kinh tế tương đối khá,
thu nhập ổn định. Hơn nữa, anh T chỉ là bạn xã hội nếu cho vay số tiền đó thì
phải có thế chấp tài sản. Việc chồng chị cho anh T vay 1.000.000 đồng là hoàn
toàn có cơ sở. Với sự chủ động, chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy, chị nghĩ anh T cố ý
gài bẫy để lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm mất uy tín của chồng chị.
Về việc giải quyết đơn tố giác của anh Nguyễn Văn T: Ngày 08/9/2023
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C ra Quyết định số 178/QĐ-CQĐT-
ĐTTH quyết định không khởi tố vụ án hình sự đối với nội dung đơn của anh
Nguyễn Văn T tố giác ông Nghiêm Văn M có hành vi Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản xảy ra ngày 05/6/2022 tại C, Hà Nội. Quyết định này cũng
nêu rõ đây là quan hệ dân sự, không có dấu hiệu của tội phạm hình sự. Nếu hai
bên vẫn không thống nhất được thì có thể gửi đơn đến Tòa án để được giải
quyết.
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, anh Nghiêm Văn M có đơn
yêu cầu Tòa án giám định hợp đồng vay tiền số 01/2022/HĐVT ngày 05/6/2022
mà anh T đã gửi cho Tòa án có phải bị thay trang 1 hay không. Ngày 08/5/2024,
Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình đã ra Quyết định trưng cầu
giám định số 02/2024/QĐ-TCGĐ và gửi tài liệu liên quan đến Viện Khoa học
hình sự - Bộ Công an để thực hiện giám định. Ngày 11/9/2024 Viện Khoa học
hình sự - Bộ Công an ban hành Quyết định 169/KL-KTHS đã kết luận: Không
đủ cơ sở Kết luận Hợp đồng cho vay tiền số 01/2022/HĐVT ngày 05/6/2022 có
bị thay trang 1 hay không. Tại Công văn 3269/C09-P5 ngày 30/10/2024 của
Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an về việc giải thích Kết luận giám định đã
nêu: Hợp đồng cho vay tiền số 01/2022/HĐVT ngày 05/6/2022 tồn tại hệ thống
các đặc điểm, tuy nhiên không đủ cơ sở khoa học chứng minh các đặc điểm này
là đặc điểm có giá trị đủ để kết luận khẳng định mẫu cần giám định có bị thay

5
trang hay không; Tại góc bên phải trang 1 mẫu cần giám định có 02 cặp lỗ ghim
xuyên qua giấy và lớp ép Plastic gồm 01 cặp lỗ ghim có chiều hướng xuyên từ
mặt trước sang mặt sau, 01 cặp lỗ ghim có chiều hướng xuyên từ mặt sau ra mặt
trước, 02 cặp lỗ ghim này không là cơ sở để đánh giá, chứng minh, kết luận mẫu
cần giám định có bị thay trang hay không.
Bản án sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 20/01/2025 của Tòa án nhân dân
huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình đã quyết định:
Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 59 Nghị định
75/200/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, mễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;
Tuyên xử: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn T về việc
kiện đòi ông Nghiêm Văn M số tiền 470.000.000 đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí giám định, nghĩa vụ thi hành án, án
phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 03/02/2025 nguyên đơn anh Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo bản
án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 20/01/2025 của Tòa án nhân dân
huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Anh T cho rằng bản án sơ thẩm không xem
xét các chứng cứ trực tiếp là 02 hợp đồng, kết luận giám định và kết luận của cơ
quan cảnh sát điều tra liên quan đến hợp đồng vay tiền, mà chỉ xem xét các
chứng cứ gián tiếp là vô lý và không có sức thuyết phục, đề nghị HĐXX phúc
thẩm làm rõ, xem xét chứng cứ và đánh giá bản án trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, giữ
nguyên nội dung kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án. Các đương sự trình bày các nội dung như đã trình bày tại Tòa
án cấp sơ thẩm và không nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ nào khác.
- Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm được thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và
kết quả tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm có đủ cơ sở khẳng
định Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
6
Nguyễn Văn T là có căn cứ, đúng pháp luật. Trong giai đoạn phúc thẩm và tại
phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Nguyễn Văn T không đưa được những tài liệu
chứng cứ nào để chứng minh cho kháng cáo của anh T. Do vậy, đề nghị Hội
đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 không
chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ
thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 20/01/2025 của Tòa án nhân dân huyện Lương
Sơn, tỉnh Hòa Bình. Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Nguyễn Văn
T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết
quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ tòa diện chứng cứ, ý kiến của các bên
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn Nguyễn Văn T khởi kiện yêu cầu bị đơn Nghiêm Văn M trả
số tiền gốc và tiền lãi theo hợp đồng vay tài sản. Bị đơn Nghiêm Văn M cư trú
tại xã TC, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Toà án nhân dân huyện Lương
Sơn, tỉnh Hoà Bình thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại
khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Ngày 20/01/2025, Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình xét
xử sử thẩm. Ngày 03/02/2025, nguyên đơn Nguyễn Văn T có kháng cáo. Theo
quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, kháng cáo trong hạn luật định,
hợp lệ nên được chấp nhận để xem xét.
Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn Nguyễn Văn T không yêu cầu anh
Nguyễn Ngọc Tuấn là người đại diện theo ủy quyền của anh tại phiên tòa; bị
đơn Nghiêm Văn M có đơn đề nghị gửi Tòa án về việc không tiếp tục thuê luật
sư Nguyễn Thị Thủy là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tại cấp phúc thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Hải Y vắng mặt, có đơn xét
xử vắng mặt. Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 294, Điều
297 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về kháng cáo của nguyên đơn
Nguyên đơn Nguyễn Văn T kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm
không xem xét đến các chứng cứ trực tiếp là 02 bản hợp đồng, kết luận giám
định, kết luận của cơ quan cảnh sát điều tra liên quan đến hợp đồng vay tiền mà
lại đi xem xét các chứng cứ gián tiếp nên bản án sơ thẩm là không khách quan,
7
đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại chứng cứ của vụ án. Hội đồng xét xử
phúc thẩm xét thấy:
[2.1]. Đối với hợp đồng vay tiền 01/2022/HĐVT ngày 05/6/2022
Hợp đồng này cũng do anh T giao nộp cho Tòa án. Đây là hợp đồng
được in 2 mặt (02 trang) trên 01 tờ giấy A4, được đánh số trang 1 và trang 2.
Nội dung của hợp đồng như sau: Anh T (bên A) cho anh M (bên B) vay số tiền
380.000.000 đồng, thời hạn vay 06 tháng từ 05/6/2022 đến ngày 05/12/2022; lãi
suất 12%/năm, hợp đồng được lập thành 02 bản có giá trị pháp lý như nhau mỗi
bên giữ 01 bản. Mặc dù hợp đồng này có chữ ký và điểm chỉ của bên B (bên
vay) anh Nghiêm Văn M, đã được giám định khẳng định chữ ký và điểm chỉ
trong bản hợp đồng là của anh Nghiêm Văn M và anh Nguyễn Văn T, xong hợp
đồng này có một số nội dung mâu thuẫn, cụ thể:
* Về nội dung các điều khoản trong hợp đồng còn có những nội dung
mâu thuẫn, chưa đồng nhất như sau:
- Bên cho vay (Bên A) là anh Nguyễn Văn T, bên vay (bên B) là anh
Nghiêm Văn M, nhưng tại khoản 1 Điều 3 của hợp đồng có ghi “Bên A đồng ý
vay số tiền trên với lãi suất 12% một năm tính từ ngày nhận tiền vay”.
- Khoản 1 Điều 2 của hợp đồng có ghi “thời hạn vay là 06 tháng (0,5
năm) - Kể từ ngày 05 tháng 6 năm 2022 - Đến ngày 05 tháng 12 năm 2022”
nhưng tại khoản 2 Điều 3 của hợp đồng đã ghi “Tiền trả cả lãi và gốc vào cuối
kỳ vay tức toàn bộ tiền sẽ được trả vào ngày 05/12/2023”.
- Theo khoản 2 Điều 5 của Hợp đồng có nêu “Địa điểm trả nợ là nơi cư
trú của bên B” nhưng trong hợp đồng không ghi địa điểm thực hiện hợp đồng,
thời gian và địa điểm bàn giao tiền.
- Anh T là Bên A – bên cho vay, anh M là Bên B – bên vay nhưng nội
dung tại khoản 2 Điều 4 của hợp đồng quy định về quyền và nghĩa vụ của bên A
như sau: “Bồi thường thiệt hại cho bên B, nếu bên A biết tài sản không đảm bảo
chất lượng mà không báo cho bên B biết, trừ trường hợp bên B biết mà vẫn nhận
tài sản đó”. Điều này mâu thuẫn với nội dung được nêu khoản 1, Điều 4 “Giao
tiền cho bên B đầy đủ, đúng chất lượng và số lượng vào thời điểm và địa điểm
đã thỏa thuận”. Bởi lẽ, nếu anh M nhận vay số tiền nêu trên của anh T, anh T sẽ
yêu cầu anh M ghi thêm nội dung “Tôi vay số tiền 380 triệu” dưới phần chữ ký
của anh M tương tự như nội dung anh T đã ghi thêm trong hợp đồng vay tiền với
anh M vào ngày 08/11/2022; hoặc nội dung xác nhận về việc anh T đã bàn giao
số tiền trên cho anh M.
8
Mặt khác, tại khoản 4 Điều 5 của hợp đồng này đã ghi “Bên B đồng ý thế
chấp tài sản của mình kể cả tài sản riêng hoặc tài sản chung nếu mất khả năng
trả nợ”. Việc thế chấp tài sản khi vay là một trong những biện pháp bảo đảm phổ
biến khi các bên thực hiện hợp đồng vay tài sản, bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ
của bên vay. Do đó, hợp đồng quy định việc thực hiện thế chấp tài sản của bên
vay khi bên vay mất khả năng là không phù hợp về mặt pháp lý.
* Về thời gian, địa điểm ký hợp đồng.
Hợp đồng được ký ngày 05/6/2022 và nguyên đơn Nguyễn Văn T khai
hai bên ký hợp đồng là vào khoảng thời từ 20 giờ – 21 giờ 30 phút ngày
05/6/2022 tại nhà nghỉ Thanh Bình thuộc khu vực Miếu Môn. Tuy nhiên anh
Nghiêm Văn M khai thời gian này anh M chưa quen biết T, đặc biệt ngày
05/6/2022 anh đang cùng nhà trường đi tham quan ở Nghệ An và khoảng 23 giờ
mới về đến nhà, anh M cũng giao nộp ảnh chụp tại mộ cụ Nguyễn Du vào lúc
13h08’ ngày 05/6/2022. Lời khai này của anh M phù hợp với lời khai của ông
Tống Duy S - Hiệu trưởng trường TH &THCS CT (BL 129), ông Nguyễn Hồng
H – Trưởng phòng Giáo dục huyện L (BL 135), ông Đỗ Viết Q – Giám đốc
Công ty cổ phần du lịch LS (BL133) đều xác nhận trong khoảng thời gian từ
ngày 03/6/2022 đến 05/6/2022 anh Nghiêm Văn M tham gia đoàn tham quan do
Phòng Giáo dục – Đào tạo huyện Lương Sơn tổ chức, không xuống xe giữa
đường. Những người này đều khẳng định thời gian đoàn tham quan về tới
Lương Sơn là từ 23 giờ đến 24 giờ ngày 05/6/2022. Đồng thời, qua đối chiếu
hợp đồng du lịch số 01/HĐ-DL ngày 01/6/2022 giữa Phòng Giáo dục – Đào tạo
huyện Lương Sơn và Công ty cổ phần du lịch Lương Sơn (BL 151 – 152) có nội
dung trùng khớp về mặt thời gian với lời khai của những người làm chứng.
Về địa điểm ký hợp đồng 05/6/2022: Tại Cơ quan điều tra, T khai về địa
điểm ký hợp đồng là nhà nghỉ Bình An. Khi làm việc tại Tòa án, T trình bày ký
hợp đồng và giao tiền tại nhà nghỉ Thanh Bình. Sau khi Tòa án tiến hành xác
minh các nhà nghỉ hoạt động tại khu vực Miếu Môn từ 2020 đến nay không có
nhà nghỉ nào tên Thanh Bình thì anh T thay đổi lời khai không biết tên nhà nghỉ
là gì. Mặt khác, trong các lời khai của T cũng có những mâu thuẫn nhau, lúc thì
khai gặp M tại nhà nghỉ Bình An, sau khi ký hợp đồng thì T và M ôm nhau ngủ,
sáng hôm sau cùng về (BL104), lúc thì T khai được M đón ở điểm chờ xe bus
rồi đưa đến nhà nghỉ Bình An, sau khi nhận đủ tiền 380 triệu đồng thì M về
trước, T ngủ một mình đến sáng hôm sau ra về (BL101).
Từ những căn cứ trên, có đủ cơ sở khẳng định giữa anh T và anh M
không có ký hợp đồng vay tiền vào ngày 05/6/2022 tại khu vực Miếu Môn như
lời khai của anh T.
9
* Về các kết luận giám định liên quan đến hợp đồng vay tiền ngày
05/6/2022.
Tại thông báo kết luận giám định số 1005/TBKLGĐ –ĐTTTH ngày
02/8/2023 và thông báo kết luận giám định số 1006/TBKLGĐ –ĐTTTH ngày
02/8/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, thành phố Hà Nội thì
tại Bản kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tp Hà Nội đã kết luận chữ
kỹ và chữ viết họ tên Nguyễn Văn M, dấu vân tay trên hợp đồng vay tiền ngày
05/6/2022 là của Nguyễn Văn M. Mặt khác tại Kết luận số 169/KL-KTHS ngày
11/9/2024 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “Không đủ cơ cở kết
luận Hợp đồng cho vay tiền số 01/2022/HĐVT ngày 05/6/2022 có bị thay trang
01 hay không”. Mặc dù có các kết luận như trên, nhưng Hội đồng xét xử xét
thấy:
- Như vừa phân tích ở trên, có đủ cơ sở khẳng định giữa anh T và anh M
không ký hợp đồng vay tiền vào ngày 05/6/2022.
- Tuy không đủ căn cứ kết luận hợp đồng vay tiền ngày 5/6/2022 có bị
thay trang hay không nhưng tại bản giải thích kết luận giám định số 3269/C09-
P5 ngày 30/10/2024 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an nêu rõ: “Tại góc
bên phải trang 1 mẫu cần giám định ký hiệu A có 02 cặp lỗ ghim xuyên qua giấy
và lớp ép plastic gồm: 01 cặp lỗ ghim có chiều hướng xuyên từ mặt trước sang
mặt sau, 01 cặp lỗ ghim có chiều hướng xuyên từ mặt sau ra mặt trước....”. Việc
tồn lại lỗ ghim tại góc phải hợp đồng có 01 tờ là bất hợp lý. Chi tiết này phù hợp
với lời khai của anh Nghiêm Văn M về việc ngày 08/11/2022 anh M và anh T có
ký hợp đồng vay tiền, hợp đồng được ký làm 02 bản, mỗi bản có 02 tờ và mỗi tờ
chỉ in ở một trang, là có cơ sở.
[2.2]. Về các mâu thuẫn giữa hợp đồng vay tiền ngày 05/6/2022 và ngày
08/11/2022.
Tại trang 1 của 02 hợp đồng thể hiện các nội dung về bên vay, bên cho
vay và đều viết tắt là bên A và bên B. Hợp đồng ngày 05/6/2022 thì bên cho vay
là bên A (anh Nguyễn Văn T) và bên vay là bên B (anh Nghiêm Văn M), nhưng
tại hợp đồng ngày 08/11/2022 thì bên cho vay lại là bên B (anh M) và bên vay là
bên A (anh T) và phần ký nhận, điểm chỉ của các bên tại trang 2 (mặt sau) chỉ
ghi bên A, bên B mà không ghi chú thích bên vay và bên cho vay, điều này dễ
dẫn tới việc đánh tráo nghĩa vụ của bên A và bên B.
Mặt khác, cả 02 hợp đồng đều do T chủ động đánh máy soạn thảo mang
đến để anh M ký nhưng chỉ có Hợp đồng ngày 05/6/2022 anh T đánh máy sẵn
toàn bộ nội dung của hợp đồng, trong đó có phần thông tin cá nhân, số tiền vay,
10
lãi xuất, còn hợp đồng ngày 08/11/2022 là hợp đồng có sau nhưng lại để trống
các nội dung trên. Điều này là không hợp lý vì hợp đồng ngày 05/6/2022 là hợp
đồng có trước và anh T đã đánh máy trước đầy đủ thông tin cá nhân của anh M,
còn hợp đồng ngày 08/11/2022 có sau nhưng lại cần ông M cung cấp các thông
tin thì anh T mới biết dể viết tay vào hợp đồng. Đối chiếu chi tiết này với lời
khai của anh M thấy có sự phù hợp, lôgic về việc anh M khai mới biết anh T từ
06/11/2022, nên khi soạn thảo hợp đồng ngày 08/11/2022 anh T mới để trống
các thông tin về nhân thân của anh M, đến khi gặp anh M mới hỏi và viết các
thông tin cá nhân vào hợp đồng. Mặt khác, hợp đồng ngày 08/11/2022, ngoài
việc anh T đã ký vào cuối trang 02 (bên A) thì anh T còn ký vào trang 01, điều
này thể hiện anh T rất cẩn thận trong việc ký hợp đồng để hợp đồng không thể bị
chỉnh sửa, thay thế, nhưng tại hợp đồng ngày 05/6/2022, mặc dù đây là hợp
đồng anh T cho anh M vay 380 triệu đồng nhưng anh T lại không yêu cầu anh M
ký vào từng trang của hợp đồng, điều này không phù hợp với việc anh T chỉ vay
1 triệu đồng của anh M nhưng đã ký vào trang 01 và còn viết vào cuối trang 02
là vay của anh M 01 triệu đồng.
[2.3]. Về các tài liệu, chứng cứ khác có liên quan
* Về việc soạn thảo hợp đồng, chuẩn bị bút, mực dấu:
Anh T là người chủ động soạn thảo, in 02 hợp đồng, chuẩn bị bút và mực
dấu để hai bên ký và điểm chỉ vào hợp đồng. Hai hợp đồng này có nội dung
giống hệt nhau ở trang 2 về điều khoản hợp đồng, kiểu chữ, vị trí để ký tên và
điểm chỉ của bên A và bên B, đồng thời cũng không ghi rõ bên nào là bên vay,
bên nào là bên cho vay.
Hợp đồng vay tiền ngày 05/6/2022 được anh T đánh máy toàn bộ, kể cả
phần thông tin cá nhân của anh M; tại trang 01 của hợp đồng không có chữ ký
của cả anh M và anh T.
Khi T hẹn gặp anh M vào ngày 08/11/2022, T đã chuẩn bị trước hợp
đồng vay tiền, bút, hộp mực. Hợp đồng được in một mặt trên giấy A4, gồm 02
tờ được đánh số trang 1 và 2, bỏ trống phần thông tin cá nhân của bên cho vay,
sau đó được anh T ghi thêm vào. Mặc dù anh M cho T vay số tiền 1.000.000
đồng, anh M không yêu cầu T phải viết giấy nhưng T vẫn tha thiết yêu cầu anh
M ký và điểm chỉ vào 02 bản của hợp đồng vay ngày 08/11/2022.
Lời khai của anh T tại cơ quan điều tra và tại Tòa án cấp sơ thẩm có sự
không đồng nhất: Lời khai tại cơ quan điều tra ngày 22/4/2023 T khai “Hợp
đồng ngày 08/11/2022, cũng lập thành 02 bản, tôi giữ 01 bản, anh M giữ 01 bản,
bản của tôi giữ thì tôi đã xé và ném đi... lúc đó, anh M cũng nhìn thấy” (BL 112,

11
117 – 118). Tại Tòa án, anh T khai Hợp đồng ngày 08/11/2022 chỉ được lập
thành 01 bản duy nhất do anh M giữ, T không giữ bản nào.
* Xét lời khai của anh Nghiêm Văn M ngày 15/11/2024: Sau khi ký hợp
đồng cho vay tiền ngày 08/11/2022 cho anh T vay 1 triệu đồng. Do anh T có
cầm 01 bản hợp đồng nên anh M lo lắng vì thấy bản Hợp đồng không bình
thường, anh M sợ anh T thay đổi nội dung vì anh M chỉ ký trang cuối. Anh M đã
gọi điện cho anh T khoảng 9-10 cuộc điện thoại nhưng không liên lạc được. Anh
M cũng nhắn nhiều tin nhắn cho anh T thể hiện sự lo lắng T thay đổi nội dung
hợp đồng vào trang sau của hợp đồng nhưng anh T không trả lời tin nhắn. Do lo
lắng anh T không nghe máy nên sáng hôm sau ngày 09/11/2022 anh M đã báo
ông Trần T.A là Trưởng Công an xã TC qua tin nhắn Zalo và chụp bản Hợp
đồng cho vay tiền để Trưởng Công an xã được biết. Lời khai của anh M phù hợp
với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của ông
Trần T.A, phù hợp các tài liệu do Công an huyện C cung cấp nên được Hội đồng
xét xử chấp nhận.
Từ những phân tích nêu trên, có căn cứ để xác định không có việc anh
Nguyễn Văn T và anh Nghiêm Văn M ký hợp đồng vay tiền vào ngày 05/6/2022
như lời khai của nguyên đơn Nguyễn Văn T. Toà án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào
các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các đương sự, người làm chứng,
đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án khách quan, toàn diện để
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn T là có căn cứ,
đúng pháp luật.
Tại cấp phúc thẩm, người kháng cáo không cung cấp được tài liệu, chứng
cứ nào chứng minh cho kháng cáo của mình. Do đó, HĐXX không có căn cứ
chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Văn T.
Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là có căn cứ,
phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
nguyên đơn Nguyễn Văn T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015:

12
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Toà án, xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Văn T. Giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 20/01/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
2. Về án phí: Anh Nguyễn Văn T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn
đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm; được trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 0005170 ngày 19/02/2025 tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 15/5/2025./.
Nơi nhận:
- Tòa án NDCC tại Hà Nội;
- Viện KSNDCC tại Hà Nội;
- Viện KSND tỉnh Hòa Bình;
- VKSND huyện Lương Sơn;
- TAND huyện Lương Sơn;
- Chi cục THADS huyện Lương Sơn;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
-Lưu: TH, tổ HCTP.
T TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Nguyễn Kim Trường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 865/2025/DS-PT ngày 05/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm