Bản án số 26/2024/HNGĐ-ST ngày 06/09/2024 của TAND huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ về tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 26/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 26/2024/HNGĐ-ST ngày 06/09/2024 của TAND huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ về tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Thanh Sơn (TAND tỉnh Phú Thọ)
Số hiệu: 26/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: V/v Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN THANH SƠN
TỈNH PHÚ THỌ
Bản án số: 26/2024/HNGĐ-ST
Ngày 06/9/2024
“V/v Ly hôn, nuôi con chung
khi ly hôn”.
CỘNG A HỘI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lp - Tdo - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN - TỈNH PHÚ THỌ
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Trần Thị Duyên Hòa.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Nguyễn Gia Thắng.
2. Ông Phạm Mạnh Quỳ.
Thư ký phiên tòa: Ông Đinh Ngọc Thủy - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân huyện
Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ tham gia
phiên toà: Ông Đinh Trọng Nho - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh
Phú Thọ xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 60/2024/TLST - HNGĐ ngày 15
tháng 4 năm 2024 về việc: Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ
án ra t xử số: 45/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2024; Quyết định
hoãn phiên tòa số: 55/2024/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2024, giữa các đương
sự:
Nguyên đơn: Chị Đinh Thị H, sinh năm 1991.
HKTT: Xóm Ch, xã C Đ, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Chỗ ở hiện nay: Xóm Q, xã H C, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Bị đơn: Anh Đinh Văn V, sinh năm 1987.
HKTT: Xóm Ch, xã C Đ, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
(Chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh V vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khi kiện ngày 25/3/2024, bản tkhai ngày 16/4/2024 nguyên đơn chị
Đinh Thị H trình bày:
Chị H anh V xây dựng gia đình với nhau năm 2010, m thủ tục đăng kết
hôn tại UBND xã Cự Đồng, huyện Thanh Sơn, tỉnh P Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng
2
chung sống cùng với bố mẹ đẻ anh V tại m Chón, Cự Đồng, huyện Thanh Sơn.
Sau đó đến khoảng năm 2012 cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên
nhân chính do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, trong làm ăn kinh tế, không tin
tưởng nhau. Bản thân anh V mải chơi bời không tập trung làm ăn kinh tế, không chăm
lo cho gia đình vợ con, vợ chồng không chịu nhường nhịn nhau nên có lời qua tiếng lại
dẫn đến cãi nhau, xúc phạm nhau. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra thì hai bên gia đình
biết, khuyên bảo, nhưng mâu thuẫn vchồng vẫn không thàn gắn, khắc phục
được. Chính cuộc sống gia đình căng thẳng nên chị H đã về nhà bố mẹ đẻ tại xóm
Quán, Hương Cần, huyện Thanh Sơn từ đầu năm 2023 để ở, vợ chồng sống ly thân
từ thời gian đó đến nay mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm đến nhau. Khi chị H
làm đơn ly hôn có gọi điện cho anh V để bảo anh về giải quyết ly hôn, tuy nhiên anh V
bảo bận ng việc nên không về được. Nay chị H xác định tình cảm với anh V không
còn, hôn nhân không đem lại hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để
giải phóng cho nhau, ổn định cuộc sống.
Về con chung: Chị Đinh Thị H trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Đinh
Quốc V, sinh ngày 26/9/2011. Con chung với ông nội anh V từ nhỏ, tuy nhiên
ông bà đi làm thuê thì cho cháu đi cùng, khi đến năm học thì cháu về ở với gia đình chị
Đinh Thị Hường (em gái ruột anh V, ở gần nhà anh V), việc ăn ở do chị Hường lo liệu,
cháu lớn nên tự đạp xe đi học không ai phải đưa đón, anh V thì đi làm vắng nhà nên
cũng không điều kiện trông nom con chung. Khi ly hôn chị H xin được trực tiếp
nuôi dưỡng con chung là cháu V đến khi cháu thành niên, chị tự nguyện không yêu cầu
anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện tại chị H đang làm lao động tự do gần nhà
thu thập ổn định, chị ở chung với mẹ đẻ có nhà ở kiên cố, rộng rãi, nhà mẹ đẻ chị H
gần trường học nên rất thuận lợi cho việc học nh, đi lại của con chung. Chị H khẳng
định sẽ tạo mọi điều kiện tốt nhất để nuôi con chung khôn lớn, trưởng thành.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị Đinh Thị H không yêu cầu Tòa án xem xét, giải
quyết.
Về công sức đóng góp trang riêng: Chị Đinh Thị H trình bày vợ chồng
không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.
Phía bị đơn anh Đinh Văn V: đã được Tòa án triệu tập, niêm yết các văn bản tố
tụng hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, không tham gia hòa giải và tham gia
phiên tòa. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về việc đăng
hộ khẩu thường trú, hoàn cảnh gia đình, tình trạng hôn nhân giữa chị H với anh V.
Theo xác nhận thông tin trú ngày 25/3/2024 tại Ban công an Cự Đồng, huyện
3
Thanh Sơn xác định anh V đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm Chón, Cự Đồng,
huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, anh V chung hộ khẩu với gia đình bố mẹ đ ông
Đinh Văn Hán. Ti biên bản lấy lời khai của chị Đinh Thị Hường (em gái ruột anh V)
xác định: Năm 2010 chị H anh V xây dựng gia đình với nhau, hai bên được tự do
tìm hiểu tự nguyện làm thủ tục đăng kết hôn tại UBND xã Cự Đồng, huyện
Thanh Sơn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng với gia đình bố mẹ đẻ anh V
tại xóm Chón, xã Cự Đồng. Trong cuộc sống chung thì vợ chồng chị H anh V
phát sinh mâu thuẫn, còn mâu thuẫn cụ thể như thế nào thì chị Hường không biết được.
Khi mâu thuẫn vợ chồng chị H, anh V xẩy ra thì bố mẹ, anh em trong gia đình cũng có
khuyên bảo tình cảm để vợ chồng bỏ qua mâu thuẫn quay về chung sống với nhau
nhưng cũng không kết quả gì, vợ chồng anh chị sống ly thân từ cuối năm 2023 đến
nay mỗi người một nơi, chị H đã vnmẹ đẻ xóm Quán, ơng Cần, huyện
Thanh Sơn để ở, vợ chồng không đi lại chung sống với nhau nữa. Quan điểm gia đình
đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật đhai bên ổn định cuộc sống
mới.
Về con chung: Chị Đinh Thị Hường xác định chị H và anh V có 01 con chung
cháu Đinh Quốc V, sinh ngày 26/9/2011, hiện cháu cùng với bố mđẻ chị anh V
từ nhỏ, tuy nhiên anh V đi làm Bắc Ninh, nên cháu với ông bà, khi bố mẹ chị đi
làm thuê thì cháu đi theo, khi nào đến năm học mới thì cháu lại về đi học, cháu
chung với gia đình chị Hường, cháu đã lớnn tự đạp xe đi học.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị Đinh Th Hường cho biết sau khi kết hôn vợ
chồng chị H, anh V chung với bmđẻ chị, việc anh chị i sản chung, nợ nần ai
hay cho ai vay nợ không thì chị không biết.
Về hoàn cảnh gia đình anh V: Anh V sau khi xây dựng gia đình với chị H thì
chung sống cùng nhà với bố mẹ đchị, tuy nhiên do kinh tế gia đình khó khăn bố đẻ
chị đi làm thuê ở trại lợn bên Sơn Tây, thành phố Hà Nội, mẹ đẻ chị đi làm thuê ở Bắc
Ninh, bố mẹ đẻ chị ít khi về nhà, có khi vài tháng mới về nhà một lần, hoặc gia đình có
công, việc thì tranh thủ về nhà xong lại đi làm ăn. Bản thân anh V cũng đi làm
Bắc Ninh ít khi về nhà. Nhà bố mđẻ chị thì đóng cửa, chị ở gần nên thỉnh thoảng qua
lại để quét dọn, trông coi nhà cửa hộ. Khi Tòa án lên gia đình làm việc chị cũng có trực
tiếp gọi điện cho anh V thu xếp về Tòa án đgiải quyết việc chị H đơn ly hôn, anh
nói lại với chị anh bận việc không về được, anh cũng không cho chị Hường nhận
thay anh các văn bản tố tụng của Tòa án, anh nói việc ly hôn của vợ chồng anh nên
không cho chị Hường tham gia. vậy chHường từ chối nhận không vào các
văn bản tố tụng ca Tòa án, đề ngh Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
4
Tại biên bản xác minh địa phương khu hành chính m Chón, Cự Đồng,
huyện Thanh Sơn cũng xác định: Chị H anh V kết hôn với nhau năm 2010, sau khi
kết n anh chchung sống cùng với gia đình bố manh V tại Cự Đồng, huyện
Thanh Sơn. Trong cuộc sống vợ chồng chị H và anh V có phát sinh mâu thuẫn, nguyên
nhân chủ yếu do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong kinh tế, cuộc
sống hàng ngày, vợ chồng không chịu nhường nhịn, chia sẻ với nhau nên xy ra xích
mích, to tiếng với nhau. Hiện tại vợ chồng anh chị đang sống ly thân mỗi người một
nơi, chị H về nhà mẹ đẻ Hương Cần, huyện Thanh Sơn để . Chị H anh V
01 con chung, cháu với ông nội anh V từ nhỏ. Khi ông đi làm thuê thì cháu
đi cùng bà, đến năm học mới tcháu về đi học, cháu chung với gia đình chị Đinh
Thị Hường (em gái ruột anh V).
Về hoàn cảnh gia đình anh V: Bố mđẻ anh V đều đi làm ăn xa nhà, bố anh
V thì đi làm thuê bên trại lợn ở Sơn Tây, Hà Nội, mẹ đẻ anh V đi làm thuê ở Bắc Ninh,
bản thân anh V cũng đi làm Bắc Ninh ít khi về nhà, nhà đóng cửa nhờ con gái ruột là
chị Đinh Thị Hường ở cạnh nhà trông coi, quét dọn. Khi gia đình công, việc hay
ngày nghỉ lễ, tết tbố mẹ, anh V mới vnhà chơi vài ngày rồi lại đi làm ăn. Tòa án
kết hợp với khu hành chính đến gia đình anh V để làm việc, tuy nhiên không ai
nhà, bản thân chị Hường từ chối nhận thay anh V các văn bản tố tụng của Tòa án.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:
Về việc tuân theo pháp luật: Qtrình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử,
Thư phiên a thực hiện đúng quy định của pháp luật, không vi phạm . Các
đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền nghĩa vụ theo đúng quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đơn đề ngày
30/7/2024. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã
triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có
lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo
quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn chĐinh Thị H, xử cho chị H được ly hôn anh Đinh Văn V. Về
con chung: Giao con chung là cháu Đinh Quốc V, sinh ngày 26/9/2011 cho chị H được
trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu thành niên. Anh V không phải cấp
dưỡng nuôi con chung chị H tự nguyện không yêu cầu. Các vấn đề khác đương sự
không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí: Chị Đinh Thị H phải chịu án phí Hôn
nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa,
Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Ngày 12/4/2024 chị Đinh Thị H nộp đơn khởi kiện về việc
ly n, nuôi con chung đối với anh Đinh Văn V, đây tranh chấp Hôn nhân gia đình
được Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết đúng thẩm
quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị Đinh Thị H có đơn đề nghị xét
xử vắng mặt, đơn đề ngày 30/7/2024. Anh Đinh Văn V không mặt tại địa phương,
Tòa án đã đến gia đình bố mẹ đẻ, em gái ruột của anh V để làm việc, lấy lời khai, tống
đạt các văn bản tố tụng, tuy nhiên phía người thân gia đình anh V không hợp tác,
không đồng ý để Tòa án làm việc, không nhận các văn bản tố tụng, người thân anh V
cũng thông tin cho anh được biết về việc chị H xin ly hôn. Như vậy anh V biết
việc chị H xin ly hôn, biết việc Tòa án lên gia đình để giải quyết ly hôn nhưng anh
cố tình trốn tránh, không hợp tác, vậy Tòa án đã tiến hành nm yết các văn bản tố
tụng theo quy định của pháp luật. Đến khi mphiên tòa anh V vẫn vắng mặt không
lý do nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết
định xét xử vắng mặt chị H, anh V phù hợp quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị H anh Đinh Văn V đăng kết hôn
năm 2010 tại UBND xã Cự Đồng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, đây là quan hệ hôn
nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng ở chung với gia đình bố mẹ đẻ anhV tại xóm
Chón, xã Cự Đồng, huyện Thanh Sơn. Trong cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc,
nguyên nhân chính do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, không cùng nhau trách
nhiệm với gia đình, vợ chồng không tin tưởng nhau thường xuyên xẩy ra cãi nhau,
vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2023 đến nay không ai còn quan tâm đến nhau, nội
dung này đã được đương sự trình bày tại Tòa án. Kết quả xác minh tại địa phương, lấy
lời khai của người thân gia đình anh V chị Đinh Thị Hường (em gái ruột), lấy lời
khai Đinh Thị Huệ (mẹ đchị H) cũng xác định vợ chồng chị H và anh V mâu
thuẫn, nguyên nhân chủ yếuvợ chồng không có tiếng nói chung, không tin tưởng và
tôn trọng nhau, thực tế anh chị đã không còn chung sống với nhau một thời gian dài,
không thực hiện quyền nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau. Hội đồng xét xử thấy
rằng: Tình trạng hôn nhân giữa chị H anh V đã trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị H xin ly hôn với anh V là có
sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014.
6
[3]. Về con chung: Chị H anh V 01 con chung cháu Đinh Quốc V, sinh
ngày 26/9/2011, hiện cháu đang ở với chị Hường (em gái ruột anh V). Hội đồng xét xử
thấy rằng: Cháu V với vợ chồng anh V, chị H ông nội từ nhỏ, khi mâu thuẫn
vợ chồng xẩy ra sống ly thân thì cháu vẫn với anh V cùng ông bà nội, tuy nhiên
bản thân anh V đi làm ít khi về nhà vậy cháu chủ yếu với ông , khi ông đi
làm thuê không ai nhà tcháu đi làm cùng với nội tại chỗ làm thuê. Đến
năm học mới thì cháu mới về đđi học, khi về nhà thì cháu chung với gia đình chị
Hường (em gái ruột anh V), cháu đã lớn nên tự đạp xe đi học không cần ai phải đưa
đón, mọi sinh hoạt ăn uống, ngủ nghỉ tại gia đình chị Hường. Anh V đi làm nên ít
thời gian về nhà, không thường xuyên mặt địa phương, không để ý, trông nom
đến con chung. Ch H làm làm lao động tự do tại địa phương thu nhập ổn định, chị
chung với mẹ đnhà kiên cố, rộng rãi, mẹ đẻ chị còn khỏe mạnh, tự lao động
được, thể hỗ trợ chị việc chăm sóc con chung khi chị bận công việc. Hội đồng xét
xử xét thấy mặc tại bản tự khai của cháu V ngày 26/8/2024 nguyện vọng của cháu
xin được với bố, tuy nhiên trên thực tế thì anh V đi làm không nhà, không
mặt tại địa phương, ông cũng đi làm vắng, nhà cửa nhờ người trông coi, cháu về đi
học phải ở nhờ tại gia đình chị Hường (em gái ruột anh V). Trong khi đó nguyện vọng
chị H xin được nuôi con chung, chị H đủ điều kiện về kinh tế, môi trường để nuôi
con chung. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển bình thường, cháu điều kiện ăn học tốt
nhất, phát triển toàn diện cần giao con chung của anh chị cho chị H được trực tiếp nuôi
dưỡng đến khi cháu thành niên phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Anh V
không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị H tự nguyện không yêu cầu.
[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Đinh Thị H không yêu cu Tòa án xem xét,
giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Anh Đinh Văn V không đến Tòa án
làm việc nên không có quan điểm về các vấn đề trên.
[5]. Về công sức đóng góp, trang riêng: Chị Đinh Thị H trình bày vchồng
không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.
[6]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.
[7]. Về án phí: Chị Đinh Thị H phải nộp tiền án phí hôn nhân gia đình
thẩm theo quy định của pháp luật.
[8]. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83
Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227,
khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5
7
Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đinh Thị H đối với
anh Đinh Văn V. Xử cho chị Đinh Thị H được lyn anh Đinh Văn V.
2. Về con chung: Giao con chung cháu Đinh Quốc V, sinh ngày 26/9/2011
cho chị Đinh Thị H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng kể từ tháng 9 năm 2024 cho
đến khi con chung thành niên. Anh Đinh Văn V không phải cấp dưỡng nuôi con chung
chị H tự nguyện không yêu cầu. Sau khi ly hôn anh V không trực tiếp nuôi con
chung quyền, nghĩa vthăm nom con chung, không ai được quyền ngăn cấm, cản
trở.
3. Về án phí: Chị Đinh Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án
phí Hôn nhân gia đình thẩm. Xác nhận ch H đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn
đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0004296 ngày 15/4/2024 tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Nay chuyển thành án phí.
"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b 9 Luật thi hành án dân
sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân
sự."
4. Về quyền kng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND
nơi các đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc
thẩm.
Nơi nhận:
- c đương s;
- VKS huyn;
- Chi cc THADS huyện;
- UBND xã CĐng, H. Thanh Sơn;
- Lưu HS + VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN T
Trần Thị Duyên Hòa
Tải về
Bản án số 26/2024/HNGĐ-ST Bản án số 26/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 26/2024/HNGĐ-ST Bản án số 26/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất