Bản án số 17/2024/HNGĐ-PT ngày 20/12/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 17/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 17/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 17/2024/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 17/2024/HNGĐ-PT ngày 20/12/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Bình |
Số hiệu: | 17/2024/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/12/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | anh H kháng cáo thay đổi nuôi con chung với chị Ng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG BÌNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 17/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 20 - 12 - 2024
V/v tranh chấp nuôi con chung
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thái Sơn
Các Thẩm phán: Bà Từ Thị Hải Dương và bà Hoàng Thị Thanh Nhàn
- Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thị Diểm Ý - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình;
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên toà: Bà
Chế Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên;
Ngày 20 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, mở
phiên tòa công khai xét xử vụ án hôn nhân gia đình phúc thẩm thụ lý số
17/2024/TLPT-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2024 về việc tranh chấp nuôi con
chung,
Do Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 31/2024/HNGĐ-ST, ngày
30/9/2024 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới bị kháng cáo,
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 410/2024/QĐ-PT ngày 20 tháng 11
năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Như N, sinh năm 1980, địa chỉ: Số E N, Tổ dân
phố B, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; Hiện cư trú tại: Khu C, khu đô thị
T, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Việt H, sinh năm 1980, địa chỉ: Số E N, Tổ dân phố
B, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Đơn khởi kiện ngày 22/7/2024, cũng như quá trình tham gia tố tụng,
nguyên đơn - chị Trần Thị Như N trình bày:
Chị và anh Nguyễn Việt H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại
Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình vào ngày 14 tháng 12
2
năm 2005. Sau khi kết hôn, cuộc sống chung của vợ chồng thời gian đầu hòa thuận,
hạnh phúc, về sau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn
là sự khác biệt về tính cách, quan điểm sống của mỗi người. Trong cuộc sống hàng
ngày, vợ chồng thiếu sự sẻ chia, thấu hiểu và thông cảm cho nhau, lâu dần vợ chồng
trở nên xa cách về tinh thần, tình cảm lạnh nhạt. Nay xét thấy vợ chồng không còn
tình cảm, cuộc hôn nhân của anh chị không có khả năng khắc phục nên chị N có yêu
cầu ly hôn để mỗi người ổn định cuộc sống.
Về con chung: Chị và anh H có 02 (hai) con chung, gồm: cháu Nguyễn Ngọc
Mỹ D, sinh ngày 22/10/2007 và cháu Nguyễn Thiên P, sinh ngày 25/7/2011. Sau khi
ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu
cầu anh H đóng góp cấp dưỡng.
Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận.
Trong quá trình tham gia tố tụng, bị đơn - anh Nguyễn Việt H trình bày:
Quá trình tìm hiểu, kết hôn và sống chung của vợ chồng như chị Trần Thị Như
N trình bày là đúng thực tế. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng chỉ hạnh phúc được
thời gian đầu. Sau đó thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do trong cuộc sống vợ chồng
không có sự hòa hợp về cách sống, quan điểm sống, vợ chồng không tìm được tiếng
nói chung, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và hiện tại đã sống ly thân. Anh H nhận
thấy hiện vợ chồng không còn dành tình cảm cho nhau, mục đích hôn nhân không
đạt được nên chị N có yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý.
Về con chung: Anh Nguyễn Việt H cũng xác định vợ chồng có 02 (hai) con
chung như trình bày của chị Trần Thị Như N. Sau khi ly hôn, anh có nguyện vọng
trực tiếp nuôi dưỡng con trai Nguyễn Thiên P và giao con gái Nguyễn Ngọc Mỹ D
cho chị N nuôi dưỡng. Không ai phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 31/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024, Toà án
nhân dân thành phố Đồng Hới đã quyết định:
Căn cứ vào các Điều 28,35, 39,147, 207, 244, 246, 271, 273 và Điều 280 của
Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 55, 58, 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và
gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ
ban Thường vụ Quốc Hội quy định về sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Như
N:
1.1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Trần Thị
Như N và anh Nguyễn Việt H.
1.2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Việt H trực tiếp chăm sóc và nuôi
dưỡng con chung là cháu Nguyễn Ngọc Mỹ D, sinh ngày 22/10/2007 đến khi cháu
D thành niên. Giao cho chị Trần Thị Như N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con
3
chung là cháu Nguyễn Thiên P, sinh ngày 25/7/2011 đến khi cháu P thành niên.
Không ai có nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn.
Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay
đổi người trực tiếp nuôi con; quyền yêu cầu cấp dưỡng được thực hiện theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình.
2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị
Như N về phân chia tài sản chung của vợ chồng do nguyên đơn rút yêu cầu.
Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí ly hôn sơ thẩm và quyền kháng cáo.
Ngày 08/10/2024, anh Nguyễn Việt H có đơn kháng cáo với nội dung cho
rằng anh có điều kiện tốt hơn để chăm sóc, nuôi dưỡng con trai là cháu Nguyễn
Thiên P, vì vậy đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm, giao cháu Nguyễn
Thiên P cho anh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình
tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
Toà án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố
tụng dân sự: Không chấp nhận đơn kháng cáo của anh Nguyễn Việt H, giữ nguyên
Bản án sơ thẩm về quan hệ con chung; Anh H phải chịu án phí phúc thẩm theo quy
định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét
xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Anh Nguyễn Việt H làm đơn kháng cáo trong hạn luật định và nộp tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm, nên chấp nhận để xét xử phúc thẩm.
Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Cả nguyên đơn và bị đơn đều có nơi cư trú
tại thành phố Đ nên Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới thụ lý, giải quyết là đúng
thẩm quyền.
[2] Về nội dung:
Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 31/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã quyết định: Xử công nhận sự thuận tình ly
hôn giữa chị Trần Thị Như N1 và anh Nguyễn Việt H; Về con chung: Giao cho anh
Nguyễn Việt H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Ngọc
4
Mỹ D, sinh ngày 22/10/2007 đến khi cháu D thành niên. Giao cho chị Trần Thị Như
N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Thiên P, sinh ngày
25/7/2011 đến khi cháu P thành niên. Không ai có nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng
nuôi con sau ly hôn.
Sau khi xét xử sơ thẩm, chị N không kháng cáo, anh H kháng cáo phần nuôi
con chung, do đó về phần quan hệ hôn nhân đã có hiệu lực pháp luật.
Xét kháng cáo của anh Nguyễn Việt H đề nghị giao cho anh H được trực tiếp
chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thiên P và giao cháu Nguyễn Ngọc Mỹ D cho
chị N trực tiếp nuôi dưỡng.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Cả chị N và anh H đều mong muốn được trực tiếp
nuôi dưỡng các con chung sau khi ly hôn, đây là nguyện vọng chính đáng, thể hiện
trách nhiệm, tình cảm của người làm cha mẹ dành cho con cái. Xét điều kiện nuôi
dưỡng các con của chị N, anh H, thấy rằng: chị N, anh H đều là những người có sức
khỏe tốt, có nguồn thu nhập ổn định sau ly hôn để có thể đảm bảo cho các con được
chăm sóc, giáo dục và phát triển bình thường.
Về ý kiến của anh H cho rằng: hiện tại chị N đang sinh sống ở chung cư mini,
đây là một giới hạn cho sự phát triển của các con khi ở trong môi trường tù túng này
là chưa khách quan. Trong khi bị đơn có cơ sở vật chất đầy đủ, thuận lợi đi lại cho
việc học phát triển kỹ năng và được sự giám sát, giáo dục của ba và ông N2. Tuy
nhiên, căn cứ hợp đồng thuê căn hộ mà chị N cung cấp, căn hộ mà chị đang sinh
sống tại khu chung cư mini đường M, khu đô thị T, phường N, thành phố Đ, tỉnh
Quảng Bình, hoàn toàn đáp ứng được điều kiện về cơ sở vật chất để đảm bảo cho sự
phát triển bình thường của các con. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn
nhân và gia đình thì “2. Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con…; trường
hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp
nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải
xem xét nguyện vọng của con”.
Căn cứ đơn trình bày nguyện vọng của cháu D và cháu P đều có nguyện vọng
xin được ở với mẹ, tại cấp sơ thẩm chị N có nguyện vọng xin được nuôi cả hai đứa
nhưng nếu chỉ được nuôi 01 đứa thì chị xin được trực tiếp nuôi cháu P.
Anh H cho rằng, anh có điều kiện hơn chị N như việc bố mẹ anh có nhà cho
thuê hàng tháng 66.000.000 đồng. Chị N cung cấp bản tổng hợp thu nhập từ tháng
01 năm 2024 đến tháng 09 năm 2024 là 45.170.637 đồng/tháng nên đây cũng được
coi là khoản thu nhập ổn định. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào điều kiện thực tế của
anh H và chị N cũng như nguyện vọng của các con và giao cháu Nguyễn Thiên P
cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Ngọc Mỹ D cho anh H trực tiếp
nuôi dưỡng là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, cháu Nguyễn Thiên P tiếp tục có đơn
trình bày nguyện vọng xin được ở với mẹ, do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của anh H mà cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm về phần quan hệ con chung.
5
[2] Kháng cáo của anh H không được chấp nhận, nên theo khoản 1 Điều 29 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội
về án phí, lệ phí Tòa án, anh Nguyễn Việt H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự
phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội về án
phí, lệ phí Tòa án,
Áp dụng Điều 81, các Điều 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Việt H, giữ nguyên Bản án
sơ thẩm số 31/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng
Hới về phần quan hệ con chung:
Giao cho anh Nguyễn Việt H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là
cháu Nguyễn Ngọc Mỹ D, sinh ngày 22/10/2007. Giao cho chị Trần Thị Như N trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Thiên P, sinh ngày 25/7/2011.
Hai bên không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho nhau.
Không ai được quyền cản trở người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền
thăm nom và chăm sóc con chung. Trong trường hợp vì quyền lợi chính đáng của
con chưa thành niên, các đương sự đều có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người
trực tiếp nuôi dưỡng hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: anh Nguyễn Việt H phải chịu 300.000 đồng được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm số 0001458 ngày 11/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 20/12/2024).
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Quảng Bình; THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- TAND thành phố Đồng Hới;
- Chi cục THADS thành phố Đồng Hới; đã ký
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ; Tòa DS.
6
Nguyễn Thái Sơn
Tải về
Bản án số 17/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 17/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm