Bản án số 256/2025/DS-PT ngày 25/12/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 256/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 256/2025/DS-PT ngày 25/12/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Phú Thọ
Số hiệu: 256/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/12/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Phạm Văn Thiệp - Lương Thị Hải
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH P
Bản án số: 295/2025/DS-PT
Ngày 25 tháng 12 năm 2025
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH P
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa:Ông Nguyễn Quang
Các Thm phán:
Bà Điêu Th Bích L
Ông Phạm Tuấn Anh
- Thư phiên tòa: Ông Lê Hồng Đăng Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh P.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P tham gia phiên a: Hoàng
Thị Tuyết Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 12 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh P xét xử
phúc thẩm C khai vụ án dân sự thụ số: 197/2025/TLDS-PT ngày 05 tháng 11
năm 2025 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 23/2025/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2025
của Toà án nhân dân khu vực 4 - P bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 272/2025/XXPT-DS
ngày 12/12/2025 giữa:
1. Nguyên đơn: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1945 (Có mặt).
Nơi trú: Khu 5, xã S nay T, tỉnh P
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông T: Ông Thành C
Trợ giúp viên pháp của Trung tâm Trợ giúp pháp Nhà nước tỉnh P (Có mặt).
2. Bị đơn: Lương Thị H, sinh năm 1952 (Vắng mặt).
Nơi trú: Khu 5, xã S nay T, tỉnh P
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ L quan:
3.1Ông Phạm Đức C, sinh năm 1951 (Vắng mặt).
Nơi trú: Khu 5, xã S nay T, tỉnh P
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người quyền lợi nghĩa
vụ L quan ông C: Ông Bùi Đức D - Trợ giúp viên pháp của Trung tâm trợ
giúp pháp Nhà nước tỉnh P (Có mặt).
3.2 Nguyễn Thị L, sinh năm 1943 (Có mặt).
Nơi trú: Khu 5, xã S nay T, tỉnh P
2
3.3 Uỷ ban nhân dân T, tỉnh P.
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Minh T Chủ tịch UBND T.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Văn T Phó trưởng phòng kinh tế -
UBND T (Vắng mặt).
4. Người làm chứng:
4.1 Nguyễn Thị L, sinh năm 1960 (Vắng mặt).
Nơi trú: Khu 5, xã S nay T, tỉnh P
4.2 Ông Hồng C là trưởng khu 5, S cũ, T, tỉnh P (Vắng mặt).
4.3. Ông Nguyễn Ngọc T địa chính S (đã nghỉ hưu), T, tỉnh P
(Vắng mặt).
5. Kháng cáo: Nguyên đơn ông Phạm Văn T kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai q trình làm việc tại
Toà án tại phiên tòa nguyên đơn ông Phạm Văn Thiêp trình bày:
Năm 1991 UBND S cấp bán đất thổ khu vực M thuộc khu đất khu
5 quy định mỗi suất đất mặt đường 15m mặt đường chiều dài sâu 24m bằng
360 m
2
nhưng thực tế khoảng đất đó chiều sâu 28m cắt 24m còn 4 m bán
tiếp cho tôi 83.000đ hóa đơn do p chủ tịch Đinh Xuân D thực tế đất
hiện nay của tôi 13m mặt đường đất của Lương Thị H 17m mặt đường tôi
bị lấn chiếm 2m mặt đường bằng 48 m
2
cộng đuôi thừa 2m x 4 = 8 m
2
tổng cộng
56 m
2
diện tích thực tế của tôi 312 m
2
diện tích của H 408 m
2
theo
quyết định mua đất, biên bản giao đất số 24 ngày 06/12/1991 của UBND huyện
Tam Thanh về việc giao đất thổ cho ông ngày 20/3/1992 UBND S giao
đất cho ông trong thực tế đất của ông không đ nên ông đề nghị Tòa án giải
quyết yêu cầu H pH trả cho ông 2m chiều rộng mặt đường, chiều sâu
28m bằng 56m
2
H lấn chiếm của ông. Diện tích thực tế của ông
339,4m
2
ông còn thiếu. Diện tích của Lương Thị H là 463,2m
2
thừa nhiều
diện tích.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Hoàn toàn nhất
trí với lời trình bày của nguyên đơn không ý kiến bổ sung.
Lương Thị H bị đơn, tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai quá trình
làm việc tại Tòa án bà H trình bày:
Năm 1982 S bán đất giãn dân khu mỏ giang cho các hộ yêu cầu
gồm dọc đường từ cổng Lổ Vảo đến Ao Mả từ ngã 4 đi nhà thờ Sơn Vy tất c
bao nhiêu hộ không khu mua dưới đường từ ngã 4 đi Lổ Vảo gồm
các hộ ông C, K, ông T, bà Cự, H. Hội đồng chính quyền chia đất gồm:
Địa chính ông Nguyễn Văn T (Phù Lao), ông Bùi Xuân T (Sơn Vy -đã chết)
ông Trần Văn C (Sơn Vy đã chết) đến năm 1997 UBND S thu hồi do hai hộ
quá rộng không đúng 360m
2
hộ bà Cự ông T, còn các hộ khác nếu hơn
3
360m
2
một ít thì pH mua thêm phần hơn 360m
2
chủ yếu Cự ông T
tới 2 hộ. Cự đã mua thêm 1 xuất nữa rồi dùng vài năm bán lại cho ông
Hoàng Văn Lực hiện đang sử dụng còn ông T không mua thêm chỉ dùng đủ
360m
2
. Mảnh đất nhà mua đã dựng nhà tạm để làm trang trại lúc ấy chồng
đi Iran về chờ việc. Nên không dồn đi nơi khác được, phần đất thừa thì
nộp tiền cho mới để cho gia đình sử dụng từ đó đên nay. UBND đo
giao đất gồm các ông Đinh Xuân D Phó Chủ tịch, ông Đào Hồng L
Trưởng C an xã, ông Nguyễn C Thắng Phó C an xã, C an viên ông B (Thủy
Trạm), ông Đức (Sơn Vy), ông Nguyễn Văn T địa chính xã. Sau khi giao đất
xong các hộ sử dụng cho đến nay không ai thắc mắc hoặc đơn từ với
UBND xã. Các hộ đã xây n hoặc xây tường bao khuôn viên của mình. Riêng
ông T vẫn để nguyên, năm 2025 ông T viết đơn lên UBND nhờ chia thêm 2m
đất của với do ông đo nhà 17m mặt đường, nhà ông 13m để nhà
nhà ông bằng nhau là 15m. Quá trình sử dụng đất trong suốt thời gian 43 năm
(1982 2025) gia đình không hề nhận được đơn tranh chấp đất đai của các h
đất gần kề cách đây 9 -10 năm, Giỗ ông nội chồng nhà ông Giao con ông
bác ruột sáng sớm ông T lên nhà bà, chồng tưởng ông lên rủ đi ăn giỗ. Ngồi
một lúc ông bảo chồng bà, ông nói với chồng về mảnh đất Mỏ Giang ông đo
của nhà 17m của nhà ông 13m thiếu 2m. Ông bảo chồng để cho bằng
mỗi người 15m. Ông nói xong chồng hỏi thế cắm đất cho bác đủ hay thiếu?
ông T trả lời đủ. Chồng nói đất chúng tôi pH mua thừa đâu chúng i mua
chứ ủy ban người ta đo ai người ta đ yên. Nếu nộp tiền thiếu một đồng cũng
không được. Cách đây 5- 6 năm thấy cỏ mọc những nơi giáp ranh gia đình
xây tường bao xuống báo ông T. Ông T ra chỗ thợ xây i to rằng nếu các
anh xây tôi đập bỏ. Chồng bảo thợ xây cứ xây còn nếu ông T đập chính
quyền, các chỗ giáp ranh đánh dấu rồi, tổ thợ người n Vy gồm anh
Đảng, anh Trì, anh Thúy Gia, anh Phương Thường em rể anh Đảng Cự
Đồng. Tổ thợ đào móng phía giáp L Phúc thì tổ thợ đào thấy răng bừa chôn
sâu dưới đất cùng đoàn thợ gọi ông T L Phúc chứng kiến, thấy vậy ông
T mới không nói gì đi về, chồng n lai ông T về tận nhà. Mãi đến đầu
năm 2025 nhận được giấy mời UBND cả chồng ra để làm đất đai
ông T đơn kiện. UBND đã hòa giải 2 lần nhưng không thành nay ông T
khởi kiện pH trả cho ông chiều rộng 2m mặt đường chiều sâu 28m tổng
56m
2
đất thì không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T.
Nguyễn Thị L người quyền lợi nghĩa vụ L quan trình bày:
cũng đồng ý như trình bày của ông Phạm Văn T, người bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp cho ông Phạm Văn T đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật.
Ông Phạm Đức C người quyền lợi nghĩa vụ L quan trình bày:
4
Ông cũng đồng ý như trình bày của Lương Thị H đề nghị Tòa án
giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông Phạm Đức C người
quyền lợi nghĩa vụ L quan ông Bùi Đức D trình bày: Ông cũng đồng ý như
lời trình bày của ông C đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của
pháp luật.
Người làm chứng Nguyễn Thị L trình bày: ông T, H không
anh em gì, là hộ giáp ranh đất giữa hai n ông bà T H phía sau. Đất n
từ năm 1997 chưa có giấy chứng nhận quyền s dụng đất ranh giới đất
giữa nhà với ông T, H từ rất lâu rồi và không thay đổi vẫn như
hiện nay. thấy rằng khi H xây bờ o gần 10 năm lúc đó ông T cũng
mặt không ý kiến gì.
Người làm chứng ông Hồng C trưởng khu 5 S nay khu 5
T trình bày: Ông trưởng khu từ năm 1987 cho đến nay đã hơn 38 năm L tục
làm trưởng khu nhà ông T H quan hệ hàng xóm. Các hộ dân được cắt
đất 360m
2
chiều rộng khoảng 10m chiều sâu tùy vào diện tích đất là 360m
2
.
Khi giao đất tôi chứng kiến việc giao đất ranh giới đất giữa hai gia đình t
khi giao cho đến hiện tại vẫn như vậy không thay đổi . Tôi được biết từ lâu
rồi ông T không mua thêm đất vẫn sử dụng khi được cấp 360m
2
còn nhà
H mua thêm đất của UBND S lúc đó ông Thìn làm địa chính cũng biết
việc nhà H mua thêm đất. Lúc giao đất không cây cối làm ranh giới
các gia đình tự đánh dấu phần đất của mình. Sau này mới cây thanh táo làm
ranh giới. Quá trình sử dụng thì hai gia đình ông T H không xảy ra tranh
chấp gì. Ông được Tòa án cho xem phiếu thu tiền mua thêm đất của ông T t
ông không phiếu thu này ông biết ông D Phó Chủ tịch phiếu thu
nhưng hiện nay nếu Tòa án báo ông D đến làm việc thì cũng khó hiện nay
ông D đã già ảnh hưởng tai biến nên trí nhớ sẽ không chuẩn không làm
việc được. Đối với phiếu thu này thì tôi cũng không biết ông T mua đất này vị
trí nào, của thửa đất nào ông T cũng một số miếng đất khu vực này nên
tôi không biết không xác định được phiếu thu này. Tôi chỉ thấy hai bên gia
đình ranh giới ổn định từ rất lâu không thay đổi cũng không thấy ông
T kiện H đòi đất mặt đường thiếu. Nay được Tòa án báo gọi làm việc tôi mới
biết ông T kiện đòi đất thiếu do gia đình H lấn chiếm của ông T. Quan
điểm của ông khi hai bên khởi kiện tại Tòa án cụ thể ông T đòi H pH trả 2m
mặt đường, chiều sâu 28m bằng 56 m
2
thì ông được biết năm 2013 bản đ địa
chính đo đạc của UBND S đã đo đạc lại các hộ dân khu ông quản
không thấy ai phản hồi hay thiếu đất k cả ông T H. Theo ông thì ông
đã làm trưởng khu gần 40 năm L tục t việc kiện tranh chấp quyền sử dụng đất
giữa ông T H tại Tòa án t ông đề nghị hai hộ pH giấy tờ cung cấp cho
5
Tòa án còn nếu không giấy tờ cung cấp cho Tòa án thì quan điểm của ông
không căn cứ hai gia đình ông T H còn anh em ruột (ông T anh
trai chồng của H). Hai gia đình hiện nay thì ranh giới đất cũng đã ràng,
không ai tranh chấp các hộ liền kề cũng ổn định không thay đổi gì.
Người làm chứng ông Nguyễn Ngọc T nguyên địa chính S nay đã
nghỉ hưu trình bày: Khi ông làm địa chính thì ông ra thực địa giao đất cho
nhà ông T, khi giao đất trong biên bản thể hiện 360m
2
trong biên bản không thể
hiện phía đông, phía tây, phía nam, phía bắc giáp ai mà thời đó chia đất các hộ
tự bảo nhau phân chia ranh giới cụ thể nhận đất đánh dấu đất của ai vào của
nhà đó bằng các cây cối linh tinh cụ thể thời đó các cây thanh táo, cho đến
bây giờ các hộ vẫn vậy không ai tranh chấp nhau cả về ranh giới lẫn diện
tích, thời đó giao chỉ thước dây đo đất sẽ không chính xác được như bây
giờ máy móc hiện đại. Việc ông T mua đất theo phiếu thu là 83.000đ (Tám
mươi ba nghìn đồng) do nộp: Mua đất màu khu cây da mỏ giang thì ông cũng
không nhớ được đã lâu quá rồi không biết được ông T mua vào đất gì
cũng không nhớ được ông T mua thêm đất của UBND không. Còn gia
đình nhà Lương Thị H cũng được giao thời điểm đó 360m
2
như n ông T
ông nhớ nhà bà H mua thêm đất UBND xã. Việc này ông ng đã hỏi
một số những người còn sống, một số người đã chết, còn một số người già lẫn
lộn đều biết việc nhà H mua thêm đất của UBND xã, lúc đó ông làm địa
chính ông biết H mua thêm nhưng ông cũng không nhớ mua thêm bao nhiêu
diện tích đất thời gian đã q lâu, gia đình ông T H còn anh em (ông
T anh trai chồng của H). Ông cho rằng bây giờ chỉ căn cứ thực tế hiện nay
hai nhà đang tồn tại ranh giới từ trước, nhà ông T không kiện cáo nhà H
nữa đ giữ tình anh em.
Qua xác minh tại nhà: Nguyễn Thị D, ông Hoàng Trung L, sinh năm
1955 ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1969 khu 5 S nay T cung cấp
như sau:
Nguyễn Thị D cung cấp: Gia đình tôi thửa đất giáp thửa đất số 356,
tờ bản đồ số 38 khu 5, S cũ, T, tỉnh P. Đất tôi mua của ông C trưởng khu từ
năm 2003, khi tôi mua ranh giới giữa nhà tôi nhà ông T đã hình thành từ lâu
hiện trạng giống như bây giờ, hai bên đã thống nhất ranh giới giữa hai gia
đình 1 viên gạch ba vanh chôn dưới trên có trồng cây xi hiện nay cây xi vẫn
còn thẳng theo đường từ trên xuống 2 cây xi đây ranh giới của hai gia đình.
Ranh giới này đã n định từ trước đến nay không tranh chấp gì. Thửa đất
giáp đất nhà tôi của ông Phạm Văn T Nguyễn Thị L, hai gia đình chúng
tôi ranh giới ràng không tranh chấp gì.
Ông Hoàng Trung Lực cung cấp: Gia đình tôi thửa đất được Nhà nước
cấp giáp với thửa đất số 357, tờ bản đồ số 38 của gia đình ông Lương Thị H
6
Phạm Đức C. Ranh giới giữa hai thửa đất từ trước đến nay 1 đường thẳng
ràng đến khoảng năm 2000 gia đình i xây 1 tường rào làm ranh giới, khi
xây tường rào hai gia đình thống nhất chỉ ranh giới để xây, ranh giới này
từ trước đến nay vẫn n vậy không thay đổi gì.
Đối với ranh giới giữa nhà ông T nhà H thì hiện nay đã xây 1 tường
rào bằng gạch, tường rào này xây đúng ranh giới từ trước đã có, ranh giới này
trước đây cây thanh táo những cây linh tinh nhưng vẫn đúng ranh giới từ
trước đã không thay đổi . Ranh giới cây thanh táo tồn tại từ những năm
1992 đến nay.
Ông Phạm Văn Đảng cung cấp: Khoảng những năm 2010 tôi được
Lương Thị H thuê xây tường rào giáp đất nhà ông Phạm Văn T tại thời điểm xây
ranh giới cây trồng linh tinh làm rặng rào dưới đào lên răng bừa
làm ranh giới khi xây ông T cũng mặt đó ông T không có ý kiến vẫn
để tôi xây bình thường. Đến khi tôi y xong ông T cũng không nói gì, không
ý kiến gì.
Qua xác minh tại UBND T, tỉnh P được ông Bùi Minh Sáng địa
chính S cung cấp như sau:
1. Bản đ địa chính đo đạc năm 2013 đối với diện tích đất của:
Ông Phạm Văn T: Thửa đất 356, tờ bản đồ địa chính số 38 (xã S cũ) nay
tờ bản đồ địa chính số 97 (xã T) diện tích thể hiện theo bản đ địa chính:
339,8m
2
. Địa chỉ thửa đất: Khu 5 (S cũ), T, tỉnh P.
Lương Thị H: Thửa đất 357, tờ bản đ địa chính số 38 (xã S cũ) nay
tờ bản đồ địa chính số 97 (xã T) diện tích thể hiện theo bản đồ địa chính:
463,2m
2
. Địa chỉ thửa đất: Khu 5 (S cũ), T, tỉnh P.
2. Bản đồ 299 sổ mục đất đai: Hồ lưu trữ tại phòng kinh tế T
không tờ bản đồ 299 đo đạc năm 1986 tại khu vực thửa đất nêu trên; sổ
mục đất đai không liệt các thửa đất tại khu vực thửa đất nêu trên.
Phòng kinh tế T không được nhận bàn giao, không hồ sơ, sổ sách,
biên bản giao đất, đồ các vị trí thửa đất lưu trữ L quan đến việcUBND S
thực hiện việc giao đất cho các hộ dân làm nhà năm 1992 tại khu vực
thửa đất tại khu 5 xã S nêu trên.
3. Đối với diện tích theo bản đồ địa chính đo đạc năm 2013 với hiện trạng
sử dụng hiện nay (cụ thể đo đạc ngày 09/9/2025 do C ty TNHH TMT P đo đạc
các đương sự chỉ mốc giới) thì diện tích chênh lệch nhau là do đâu? Đối với
thửa đất ông Phạm Văn T t bản đồ địa chính 2013: 339,8m
2
đo hiện trạng sử
dụng 337,1m
2
. Đối với thửa đất Lương Thị H t bản đ địa chính 2013:
463,2m
2
đo hiện trạng sử dụng 438,7m
2
. Do tại thời điểm đo đạc bản đồ địa
chính năm 2013 không người dẫn đạc nên việc xác định ranh giới giữa các
thửa đất không chính xác. Mặt khác tại thời điểm đo đạc 2013 tuyến đường giao
7
thông phía trước của 2 thửa đất trên không được đo vẽ. Do thời điểm năm 2013
chưa n ở. UBND T cung cấp cho Tòa án: In sao t tờ bản đ địa chính
số 97 (xã S cũ).
4. Về biên bản giao đất được lập tại S ngày 20/3/1992 của ông Phạm Văn
T ghi về việc giao đất thổ diện tích 360m
2
quá trình s dụng đất gia đình
ông T không xây dựng C trình trên đất nên đến năm 2013 Nhà nước đo đạc
quy hoạch lại đất, những thửa đất nhà C trình kiên cố thì được C nhận
đất thổ cư, còn những thửa đất chưa xây dựng n và C trình kiên cố thì Nhà
nước quy hoạch thành đất HNK (là đất trồng cây lâu năm khác). Trong biên bản
giao đất cũng ghi pH làm nhà trong thời hạn 6 tháng. Đối với gia đình
Lương Thị H t cũng tương tự.
Mặc biên bản giao đất của nhà ông Phạm Văn T không số thửa qua
quá trình sử dụng thực tế quản tại địa phương thì biên bản giao đất trên
chính thửa đất số 356 tờ bản đ số 38 nay tờ bản đồ số 97 tại khu 5, S,
huyện T nay khu 5, T, tỉnh P.
Đối với phần diện tích được cấp tại biên bản giao đất 360m
2
nhưng q
trình quản đo đạc của địa phương gia đình ông Phạm Văn T diện tích đất
trên 339,8m
2
trong bản đồ địa chính đo đạc 2013 cũng đã thể hiện diện tích
này.
Uỷ ban nhân dân T, tỉnh P quan điểm: Đề nghị Tòa án nhân dân
khu vực 4 P căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.
Quan điểm của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:
Ông Thành C: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Phạm Văn T về việc đòi Lương Thị H pH trả cho ông 2m mặt đường, chiều
sâu là 28m bằng 56m
2
.
Quan điểm của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người
quyền lợi nghĩa vụ L quan ông C: Ông Bùi Đức D: Đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T về việc yêu cầu
Lương Thị H vợ ông Phạm Đức C pH trả cho ông T 2m mặt đường, chiều
sâu là 28m bằng 56m
2
.
Tòa án đã xem xét thẩm định tại chỗ:
Thửa đất 356, 357 t bản đồ số 38 khu 5 S cũ, T, tỉnh P thực địa các
thửa đất thể hiện như sau:
Đối với thửa đất 356 tờ bản đồ số 38 nay tờ bản đồ số 97 T được
Nhà nước cấp cho ông Phạm Văn T thực địa thể hiện gồm:
Phía trước giáp đường đất của xóm dài 13,58m (là đường đất).
Phía bên pH giáp hộ Nguyễn Thị Dung chiều dài 24, 14m.
Phía sau giáp đất hộ ông Lê Văn Phúc Nguyễn Thị L chiều dài
13,17m.
8
Phía bên trái giáp hộ bà Lương Thị H dài 27,18m.
Tổng diện tích đất hộ ông T đang sử dụng theo các điểm 3,4,5,6,3 bằng
337,1m
2
.
Trên thửa đất trên không nhà cửa, y cối gì, chỉ cỏ dại.
Đối với thửa đất 357 tờ bản đồ số 38 nay tờ bản đồ số 97 T được
Nhà nước cấp cho Lương Thị H thực địa thể hiện gồm:
Phía trước giáp đường đất của xóm chiều dài 17,03m.
Phía bên pH giáp hộ ông Phạm Văn T chiều dài 27, 18m.
Phía sau giáp đất hộ ông Lê Văn Phúc Nguyễn Thị L chiều dài
15,05m.
Phía bên trái giáp hộ ông Hoàng Trung Lực chiều dài 27,56m.
Tổng diện tích đất hộ H đang sử dụng theo các điểm 1,2,8,3,6,7, 1
bằng 438,7m
2
.
Trên thửa đất trên không nhà cửa, y cối gì, chỉ cỏ dại.
Giữa nhà ông T, Dung, H n ông Lực ổn định, không
tranh chấp gì.
Phần ranh giới của 02 thửa đất trên một đoạn tường rào bằng 27,18m
cao 1,2 m do n Lương Thị H xây khoảng năm 2017 xây bằng gạch xỉ.
Phần đất tranh chấp theo các điểm 3,6,7,8 diện tích bằng 54,4m. Phần
này nhà H đang sử dụng đoan tường o xây ngăn cách theo các điểm 3,6
= 27,18m.
Tài sản định giá:
01 đoạn tường rào xây bằng gạch sỉ, xây khoảng năm 2017 chiều dài =
27,18m và chiều cao = 1,2m. Ý kiến của Hội đồng định giá: Độ hao hụt 25%
nay giá trị 5.100.000đ (Năm triệu một trăm nghìn đồng).
Giá đất HNK đất trồng cây lâu năm khác vị t 02 thửa đất đang tranh
chấp giá theo quyết định số 15 ngày 19/3/2025 của UBND tỉnh P giá là
45.000đ/m
2
(Bốn mươi lăm nghìn đồng trên một mét vuông).
Tại Bản án số: 23/2025/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2025 Tòa án nhân
dân khu vực 6 -P đã xử:
Căn cứ vào Điều 166, Điều 170 Luật Đất đai năm 2013 Điều 26, Điều
31 Luật đất đai năm 2024; Điều 158, Điều 164 của Bộ luật dân sự; Khoản 9
Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a c khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản
1 Điều 157, khoản 1 Điều 165, Điều 271 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15, khoản 1 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T về việc yêu cầu
Lương Thị H pH trả cho ông 2m chiều rộng mặt đường, chiều sâu 28m
9
bằng 56m
2
thửa đất 356, tờ bản đ địa chính số 38 (xã S cũ) nay tờ bản đồ địa
chính số 97 (xã T); diện tích thể hiện theo bản đồ địa chính 339,8m đất HNK
(đất trồng cây lâu năm khác). Địa chỉ thửa đất: Khu 5, (xã S cũ), T, tỉnh P.
Bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, quyền kháng cáo theo quy định của
pháp luật.
Ngày 06/10/2025 nguyên đơn ông Phạm Văn T, kháng cáo bản án Dân
sự thẩm số: 23/2025/DS-ST ngày 30/9/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4 -
tỉnh P yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm: Buộc Lương Thị H pH trả lại cho gia
đình ông chiều rộng 2m mặt đường, chiều dài 28m, diện tích 56m
2
. Thửa đất tại
khu 5 (S cũ), xã T, tỉnh P.
Tại phiên tòa đương sự giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P nêu quan điểm về việc
tuân theo pháp luật của Thẩm phán Hội đồng xét xử, Thư phiên toà khi
giải quyết vụ án cấp phúc thẩm, Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của
Bộ luật Tố tụng Dân sự, đơn kháng cáo của đương sự đúng hạn luật định. Hội
đồng xét xử đã xét xử đúng nguyên tắc, đương sự thực hiện quyền nghĩa vụ
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đề nghị HĐXX phúc thẩm chấp
nhận kháng cáo của nguyên đơn (Có bài phát biểu lưu hồ vụ án).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét
xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của ông Phạm n T trong hạn luật định nên được xem
xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn do đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
[2] Về nội dung:
[2.1]. Xét yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Văn T về việc yêu cầu
Lương Thị H pH trả cho ông 2m chiều rộng mặt đường, chiều sâu 28m
bằng 56m
2
thửa đất 356, tờ bản đ địa chính số 38 (xã S cũ) nay tờ bản đồ địa
chính số 97 (xã T); diện tích thể hiện theo bản đồ địa chính 339,8m
2
đất HNK
(đất trồng cây lâu năm khác). Địa chỉ thửa đất: Khu 5, (xã S ), T, tỉnh P.
Hội đồng xét xử thấy rằng:
Năm 1992 ông Phạm Văn T cùng một số hộ dân của S được Nhà nước
cấp đất giãn dân tại khu vực M, S. Ông T nhận biên bản của UBND S bàn
giao đất (ông Phạm Văn T ra thực địa nhận đất) ngày 20/3/1992 diện tích
360m
2
không chỉ giới cụ thể, mặt giáp đường giao thông cũng không xác
định chiều dài mặt đường đất 15m.
10
Ông Phạm Văn T cho rằng khi H xây tường đã lấn chiếm sang thửa đất
của ông 2m chiều rộng ông đơn gửi UBND S năm 2021 nhưng UBND
S không giải quyết tranh chấp đất giữa nhà ông với nhà H (nhưng không
tài liệu chứng cứ chứng minh).
Ông Phạm Văn T cho rằng năm 1998 ông đã biết nhà ông thiếu đất nhưng
ông cũng không ý kiến gì. Trong suốt thời gian từ khi được giao đất cho đến
trước thời điểm ông khởi kiện hai gia đình không văn bản giấy tờ già về tranh
chấp ranh giới đất.
Căn cứ lời khai người làm chứng việc xem xét thẩm định tại chỗ xác
định được từ năm 1992 bà H đã xác lập hàng rào, năm 2018 đã xây tường bao
các bên sử dụng ổn định. Giả sử nếu H sử dụng diện tích đất ợt quá sang
phần đất của hộ ông T thì một phần thuộc lỗi của hộ ông T trong nghĩa vụ quản
đất đai của mình pH biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật.
[2.2] Thực tế các bên sử dụng ổn định tính từ thời điểm ông T H
được giao đất là năm 1992 đến thời điểm khởi kiện là trên 30 năm. Điều 236 Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản
không căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, L tục, C khai trong thời hạn 10 năm
đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản t trở thành chủ sở hữu của tài
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác
L quan quy định khác”.
Do vậy, cần xác định ranh giới các bên đang s dụng tồn tại đã trên 30
s đ xác định ranh giới quyền s dụng đất.
[2.3] UBND T cung cấp: Bản đ địa chính đo đạc năm 2013 đối với
diện tích đất của ông Phạm Văn T: Thửa đất 356, tờ bản đ địa chính số 38 (xã
S cũ) nay tờ bản đồ địa chính s 97 (xã T) diện tích thể hiện theo bản đ địa
chính: 339,8m
2
. Thửa đất 357, t bản đồ địa chính số 38 (xã S cũ) nay tờ bản
đồ địa chính số 97 (xã T) diện tích thể hiện theo bản đ địa chính: 463,2m
2
. Địa
chỉ thửa đất: Khu 5 (S cũ), T, tỉnh P. UBND T cung cấp việc thiếu hụt đất
nguyên nhân do phương pháp đo đạc trước đây chỉ đo bằng dây nay đo
bằng máy móc sẽ chính xác hơn nên sai số.
[2.4] Từ những phân tích tại các mục [2.1] [2.2] [2.3] trên, Hội đồng xét
xử phúc thẩm thấy cấp đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm
Văn T người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông Phạm Văn T đúng
pháp luật, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của
ông Phạm Văn T.
[3] V án phí: Do yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Văn T
không được chấp nhận nên pH chịu án p dân sự phúc thẩm . Tuy nhiên, ông T
người cao tuổi nên được miễn án phí.
[4] Đề nghị của Kiểm sát viên Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm p
11
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
n cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật T tụng n sự.
1. Không chấp nhận nội dung kháng o của ông Phạm Văn T.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 23/2025/DS-ST ngày 30/9/2025
của Tòa án nhân dân khu vực 4 - P.
3. V án phí phúc thẩm: Miễn án p cho ông Phạm n T
Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng o, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh P;
- VKSND khu vực 4 -P;
- TAND khu vực 4 -P;
- THADS tỉnh P;
- Các đương sự;
- Lưu AV: Hồ .
TM. HỘI ĐỒNG T XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Quang
Tải về
Bản án số 256/2025/DS-PT Bản án số 256/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 256/2025/DS-PT Bản án số 256/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất