Bản án số 256/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 256/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 256/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Kiên Giang
Số hiệu: 256/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Vũ Trọng T - Sơn V - Tranh chấp đòi lại giá trị quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 256/2024/DS-PT
Ngày: 30-9-2024
Tranh chấp đòi lại giá tr
quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Bá Kha
Các Thẩm phán: Ông Lê Quang Tấn
Nguyễn Thị Nhiên
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Mai - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang tham gia phiên tòa:
Ông Phan Tân - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 169/2024/TLPT-DS ngày 05 tháng 8 năm
2024, về việc “Tranh chấp đòi lại giá trị quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự thẩm số 87/2024/DS-ST ngày 11/6/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 214/2024/QĐ-PT ngày
21 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
*Đồng nguyên đơn: Ông Vũ Trọng T, sinh năm 1953
Mai Thị M, sinh năm 1953
Cùng địa chỉ: Số A, đường H, Khu phố E, phường D, thành phố P, tỉnh
Kiên Giang
*Đồng bị đơn: Ông Sơn V, sinh năm 1956
Hà Thị Ú, sinh năm 1959
Cùng địa chỉ: Tổ A, ấp R, xã H, thành phố P, tỉnh Kiên Giang
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật Võ Văn M1
Đoàn luật sư tỉnh K. Địa chỉ:
*Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Sơn Thùy T1, sinh năm 1984.
Địa chỉ: Tổ 1, ấp Rạch Hàm, Hàm Ninh, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang
(Ông Sơn Vàng, bà Hà Thị Ú, luật sư Võ Văn M1 có mặt, còn lại vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Sơn V và bà Hà Thị Út .
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
*Theo đơn khởi kiện ngày 11-01-2022, quá trình giải quyết vụ kiện ông
Vũ Trọng T và bà Mai Thị M trình bày: Từ năm 2004 đến năm 2008, vợ chồng
ông Trọng T, bà Mai Thị M 03 lần nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
của vợ chồng ông ông Sơn V, Thị Ú, cụ thể: Lần 1, diện tích khoản
6.000m
2
; Lần 02 diện tích khoản 3.700m
2
; Lần 03 diện tích 311,4m
2
, hai n
hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, vợ chồng ông T đều được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định của nhà nước.
Tuy nhiên, vị trí đất nằm phía trong không cạnh giáp đường đi D - H.
Trước khi nhận chuyển nhượng vợ chồng ông V đồng ý chừa đường đi chiều
ngang 02m, sau đó vợ chồng ông T nhận chuyển nhượng thêm chiều ngang 02m
thành 4m x chiều dài khoảng 90m, sau khi Toà án thẩm định diện tích 332m
2
.
Vợ chồng ông V yêu cầu ông T tự bỏ chi phí, đỗ tông để gia đình ông V
được sử dụng làm lối đi chung. Vợ chồng ông V cùng con gái Sơn Thùy T1
ký biên bản thoả thuận ngày 06-02-2004 và ký tờ cam kết, nếu sau này có xảy ra
các tranh chấp thuộc phạm vi con đường và diện tích đất đã chuyển nhượng cho
vợ chồng ông T, thì gia đình ông V đồng ý chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Năm 2020 ông Nguyễn Văn D, Trương Thị K khởi kiện vchồng ông
T tại Toà án nhân dân thành phố Phú Quốc để tranh chấp quyền sử dụng đất diện
tích 332m
2
, cho rằng vợ chồng ông T bao chiếm đất để làm đường đi, nguồn gốc
đất do vợ chồng ông D nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông V, đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 641669, được UBND huyện (Nay
thành phố) Phú Quốc cấp ngày 15-11-2010 thửa đất số 99, tờ bản đồ số 38, diện
tích 2.970,4m
2.
Quá trình Toà án thụ lý giải quyết vụ kiện bên vợ chồng ông D, cho người
đổ đá ngay vị trí con đường, vợ chồng ông T không còn lối đi nào để vào đất. Vì
phía trong phần đất nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông V, ông T đã xây
dựng nhiều Bungalow, đang cho thuê, bên ông D đổ đá thì ảnh hưởng đến việc
kinh doanh. Vợ chồng ông T yêu cầu vợ chồng ông V chịu trách nhiệm về nội
dung đã cam kết, nhưng vợ chồng ông V tránh, cho rằng đất đã chuyển
nhượng nên không còn nghĩa vụ gì.
Để giải quyết nhanh chóng vụ án, tránh gây thit hại lớn về quyền lợi của
các bên, vợ chồng ông T và bên ông D đã thỏa thuận với nhau để giải quyết toàn
bộ nội dung vụ án, theo quyết định số: 34/2021/QĐST-DS ngày 01 tháng 11
năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố Phú Quốc. Bên vợ chồng ông D đồng
ý giao cho vchồng ông T sử dụng diện tích đất 981,3m
2
trong đó 970,4m
2
đất nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông D, phần con đường là
chiều ngang 4m x dài 83m = 332m
2
, tính theo chứng thư định giá số Vc
21/7/65/CT-TVAP ngày 09-7-2021 của Công ty TNHH Đ1, kết quả thẩm định
giá 2.566.360.000đ (Hai tỷ, năm trăm sáu mươi sáu triệu, ba trăm sáu mươi
3
nghìn đồng) và phần diện tích bên ông D đồng ý giao cho vợ chồng ông T thêm,
vợ chồng ông T trả tổng số tiền 7.500.000.000đ (Bảy tỷ năm trăm triệu đồng).
Quyết định này đã được thi hành xong, vợ chồng ông T đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quyết định của Tòa án.
Đối với diện tích đất 311,4m
2
giữa vợ chồng ông T với vợ chồng ông V đã
giải quyết xong, theo quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự số:
05/2024/QĐST-DS ngày 17-01-2024 của Toà án nhân dân thành phố Phú Quốc,
hiện tại diện tích đất này đã được nnước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho vợ chồng ông T, các bên không còn tranh chấp.
Nay vợ chồng ông Trọng T, Mai Thị M khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết như sau: Buộc vợ chồng ông Sơn V, bà Thị Ú thực hiện đúng cam
kết theo biên bản ngày 06-02-2004, trả cho vợ chồng ông T giá trị diện tích đất
con đường chiều ngang 4m x dài 83m = 332m
2
x 7.725.000đ/1m
2
=
2.566.360.00(Hai tỷ, năm trăm sáu mươi sáu triệu, ba trăm sáu mươi nghìn
đồng) vợ chồng ông T đã trả số tiền này cho bên vợ chồng ông D. Ngoài ra
không yêu cầu gì khác.
*Tại biên bản lấy lời khai ngày 09-01-2024 ông Sơn V Thị Ú
trình bày: Vợ chồng ông Sơn V, Thị Ú xác định nhiều lần chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T nvợ chồng ông T đã trình
bày, diện tích đất 311,4m
2
Toà án đã giải quyết xong, hiện tại giữa các bên
không còn tranh chấp đối với đất đã chuyển nhượng, bên vợ chồng ông T đã
được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vợ chồng ông V không thoả thuận với vợ chồng ông T đối với đất làm
đường đi, theo giấy thoả thuận ngày 06-02-2004 (BL15), tờ cam kết viết bằng
mực bút bi màu đen (BL16) vợ chồng con ông V chị S Thuỳ Trang không
ký, viết tên nên không thừa nhận chữ chữ viết nhưng không yêu cầu giám
định chữ ký, chữ viết. Vợ chồng ông V khẳng định không chuyển nhượng cho
vợ chồng ông T phần đất để làm đường đi, cũng không chừa đường đi cho ông T
thừa nhận bán đất phía trong thì chừa đường ra để cho ông T và gia đình
ông V cùng sử dụng chung, không phải giao toàn quyền cho ông T sử dụng. Vợ
chồng ông V không yêu cầu vợ chồng ông T phải đổ tông để con đường
được cao ráo, thuận tiện cho việc lưu thông, hiện tại con đường đi vẫn còn theo
hiện trạng.
Vào năm 2020 ông Nguyễn Văn D, bà Trương Thị K khởi kiện v
chồng ông T để tranh chấp diện tích đất tại con đường chiều ngang 4m x dài
83m trước đây vợ chồng ông T cho rằng, vợ chồng ông V chừa ra để làm
đường đi chung. Quá trình giải quyết thì vợ chồng ông T thống nhất thỏa thuận
với bên ông D, trả cho bên ông D số tiền 7.500.000.000đ (Bảy tỷ năm trăm triệu
đồng), trong đó phần con đường chiều ngang 4m x dài 83m = 332m
2
, tính
4
theo kết quả thẩm định giá tại chứng thư định giá số Vc 21/7/65/CT-TVAP ngày
09-7-2021 của Công ty TNHH Đ1 thì 1m
2
7.725.000đ x 332m
2
=
2.566.360.00(Hai tỷ, năm trăm sáu mươi sáu triệu, ba trăm sáu mươi nghìn
đồng), việc thỏa thuận giữa các bên vợ chồng ông V không liên quan gì.
Nay vchồng ông T cho rằng đã bồi thường cho vợ chồng ông D diện
tích đất làm đường đi 332m
2
= 2.566.360.000đ (Hai tỷ, năm trăm sáu mươi
sáu triệu, ba trăm sáu mươi nghìn đồng) nên yêu cầu vợ chồng ông V trả lại tiền,
vợ chồng ông V không đồng ý.
*Tại phiên tòa vợ chồng ông Sơn V, bà Th Ú trình bày: Không
đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Vũ Trọng T, bà Mai Thị M2 về
việc buộc vợ chồng ông V trả giá trị quyền sử dụng đất 332m
2
= 2.566.360.000đ.
Vợ chồng ông V cho rằng, trước đây chỉ chuyển nhượng cho bên ông D diện
tích đất 4.000m
2
,
bên ông D tự đi làm giấy tách diện tích đất 5.000m
2
nên
dính vào vị trí đất vợ chồng ông V cho vợ chồng ông T m lối đi chung, do
không hiểu biết pháp luật nên không đi khởi kiện tranh chấp hợp đồng với ông
D. Việc tranh chấp giữa vợ chồng ông T với vợ chồng ông D về diện tích đất
làm đường đi, đã được Toà án giải quyết xong nên vợ chồng ông V không đồng
ý trả tiền lại cho vợ chồng ông T.
Theo Giấy thỏa thuận ngày 06-02-2004 (BL15) Tờ cam kết (BL16) vợ
chồng ông Sơn V, Thị Ú thừa nhận tên xác nhận. Đối với kết quả
định giá tài sản số Vc 21/7/65/CT-TVAP ngày 09-7-2021 của Công ty TNHH
Đ1 ông V, Ú đồng ý làm sở xét xử, không yêu cầu định giá lại tài sản
tranh chấp. Ngoài ra vợ chồng ông V không yêu cầu gì, không cung cấp thêm tài
liệu, chứng cứ.
*Tại biên bản lấy lời khai 23-5-2024 bà Sơn Thùy T1 trình bày: Chị T1
con ruột của vchồng ông Sơn V, Hà Thị Út . Khoảng năm 2009-2010 vợ
chồng ông V có chuyển nhượng đất nằm phía trong, không có cạnh nào giáp mặt
đường Dương Đ - H, vợ chồng ông V bên ông T đã hoàn thành thủ tục
chuyển nhượng đất.
Đối với việc thỏa thuận con đường, vợ chồng ông V thỏa thuận giao
cho ông T được sử dụng diện tích đất chiều ngang 2m chiều dài bao nhiêu không
biết nhưng giáp với đất đã chuyển nhượng cho ông T. Chị T1 khẳng định vợ
chồng ông V không chuyển nhượng phần diện tích đất để cho vợ chồng ông T
làm đường đi, mà vợ chồng ông V chừa đất thuộc quyền sdụng của mình để
cho ông T gia đình chị T1 cùng sdụng, việc thỏa thuận lập giấy tờ, v
chồng ông V và ông T ký tên xác nhận nội dung, nhưng ông Tấn G.
Tòa án cho chị T1 xem biên bản thỏa thuận đề ngày 06-02-2004, chT1
khẳng định do chị T1 tên. Tuy nhiên, thời điểm vợ chồng ông V lập biên bản
thỏa thuận thì phần đất đã bị bên ông Nguyễn Văn D, bà Trương Thị K làm giấy
5
tờ bao chiếm, vì thực tế vợ chồng ông V chỉ chuyển nhượng cho ông D 4.000m
2
nhưng ông D đi làm giấy tách thửa thì tách tới 5.000m
2
nên bao trùm luôn phần
con đường vợ chồng ông V thỏa thuận với ông T. Đối với phần đất đlàm
con đường đi thì bên ông D, bà K tranh chấp với bên ông T, được ông T mua
lại, Tòa án đã giải quyết xong, nên Giấy thỏa thuận ngày 06-02-2004 không còn
hiệu lực.
Tòa án tiếp tục cho chị T1 xem tờ cam kết, không đề ngày tháng năm (BL
số 16), chị T1 khẳng định đây chữ viết của chị T1, do chị T1 viết bằng mực
bút bi màu đen, trên giấy tập học sinh, vợ chồng ông V chị T1 cùng cam
kết. Về nội dung thì hiện tại chị T1 không nhớ, nhưng vợ chồng ông V kêu viết
thì chị T1 viết, lúc đó mặt ông T nhưng ông T không ký vào tờ cam kết. Tòa
án có cho chị T1 xem sổ tay ông T cung cấp, tại mặt sau của trang có ký hiệu số
103 và mặt trước mặt sau của trang ký hiệu số 104 chị T1 khẳng định
chữ viết của chị T1, chữ tên của ông V, Ú với ông T. Tuy nhiên, tại mặt
sau của trang hiệu số 103 tại dòng “Hôm nay ngày 04-02-2004” không
phải do chị T1 viết do ông T viết tại mặt trước trang hiệu số 104
“2009” có dấu sửa là do ông Tấn S1, thực tế năm 2008, không phải năm 2009.
Trong vụ án này chị T1 đồng ý tham gia với cách người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan, để theo dõi việc Tòa án giải quyết vụ án giữa vchồng
ông T với vợ chồng ông V. Chị T1 không có yêu cầu độc lập gì có liên quan đến
vụ án. Việc tranh chấp giữa vợ chồng ông T với vợ chồng ông V thì Tòa án giải
quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, chị T1 vẫn giữ nguyên lời trình bày nêu trên, thừa nhận chữ
theo Giấy thỏa thuận ngày 06-02-2004 (BL15) do chị T1 vợ chồng ông V
ký, Tờ cam kết (BL16) do chị T1 viết cùng vợ chồng ông Sơn V, Thị
Ú tên xác nhận. Tuy nhiên, chị T1 cho rằng việc thỏa thuận giữa vợ chồng
ông T với bên ông D đã thực hiện xong, bên ông T cam kết không kiện vợ
chồng ông V, nay lại kiện đòi giá trị đất là không đúng, yêu cầu HĐXX xem xét
bác đơn kiện của vợ chồng ông T.
* Tại bản án dân sự thẩm số 87/2024/DS-ST ngày 11/6/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Vũ Trọng T,
Mai Thị M về việc buộc vợ chồng ông Sơn V, bà Thị Ú hoàn trả giá trị
quyền sử dụng đất làm lối đi (Ngang 4m x dài 83m = 332m
2
), tại ấp R, H,
thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
2. Buộc vợ chồng ông Sơn V, Thị Ú trả cho ông Trọng T,
Mai Thị M giá trị 332m
2
= 2.566.360.00(Hai tỷ m trăm sáu mươi sáu triệu
ba trăm sáu mươi nghìn đồng)
6
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357,
Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về chi phí thẩm định: Hoá đơn giá trị gia tăng ngày 09-5-2023 của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố phú Q thu phí bản vẽ là 4.769.820đ,
vợ chồng ông Trọng T, Mai Thị M đã nộp tạm ứng, nên vchồng ông
Sơn V, bà Hà Thị Ú hoàn trả số tiền này cho vợ chồng ông T.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Vũ Trọng T, sinh năm 1953, bà Mai Thị
M, sinh năm 1959, người cao tuổi, được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo
thông báo số: 67/TB-TA ngày 25-7-2022.
Ông Sơn V, sinh năm 1956, bà Hà Thị Ú, sinh năm 1959 căn cứ theo Điều
3 Luật người cao tuổi và Điểm d, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/NQ-
UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí
Tòa án, HĐXX xét đồng ý miễn cho vợ chồng ông V, Ú án phí số tiền
83.327.000đ (Tám mươi ba triệu ba trăm hai mươi bảy nghìn đồng).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và báo quyền
kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 13/6/2024, bị đơn ông Sơn V Thị Ú đơn kháng cáo yêu
cầu huỷ toàn bộ bản án n sự thẩm số 87/2024/DS-ST ngày 11/6/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Trọng T Mai Thị M2
không có kháng cáo và có đơn xin xét xử vắng mặt.
Bị đơn ông Sơn V và bà Hà Thị Ú giữ nguyên kháng cáo và đề nghị HĐXX
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông bà.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang nêu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
phiên tòa việc chấp hành pháp luật của các bên đương sự, từ khi thụ vụ án
đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đã thực hiện chấp hành đúng theo
các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận toàn bộ nội dung
kháng cáo của bị đơn ông Sơn V và bà Hà Thị Út . Giữ nguyên bản án dân sự sơ
thẩm số 87/2024/DS-ST ngày 11/6/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú
Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra
công bố công khai tại phiên tòa căn cứ kết quả tranh luận, trên sở xem xét
7
đầy đủ, toàn diện các chứng cứ của nguyên đơn, bị đơn những người tham
gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của bị đơn ông Sơn V Thị Ú
về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo thời hạn kháng cáo đã đúng
quy định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng
xét xử chấp nhận xem xét giải quyết kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn ông Trọng T Mai Thị M,
người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Sơn Thùy T1 vắng mặt đơn xin
xét xử vắng mặt nên áp dụng khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án
tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định.
[2] Về nội dung kháng cáo của bản án sơ thẩm:
Bị đơn ông Sơn V Hà Thị Ú đơn kháng cáo yêu cầu huỷ toàn bộ
bản án dân ssơ thẩm số 87/2024/DS-ST ngày 11/6/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang do nhiều sai sót về thủ tục nội
dung của bản án gây nhiều bất lợi cho bị đơn.
[3] Hội đồng xét xử xét thấy:
Vợ chồng ông Trọng T, Mai Thị M xác lập hợp đồng nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với vợ chồng ông Sơn V, Thị Ú thuộc
thửa đất số 84, tờ bản đồ số 38, diện tích 6.317m
2
, theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BB 64163, được UBND huyện (Nay thành phố) Phú Quốc cấp
ngày 22-5-2012 do vợ chồng ông T, bà M đứng tên chủ sử dụng đất, tại ấp R, xã
H, thành phố P.
Vợ chồng ông T xác định, tại thời điểm chuyển nhượng đất không lối
đi ra theo hướng đường D - H, vợ chồng ông V đồng ý chừa đường đi 02m
vợ chồng ông T nhận chuyển nhượng thêm 02m tổng cộng chiều ngang 04m x
dài tới phần đất phía trong của ông T nhận chuyển nhượng. Vợ chồng ông V yêu
cầu vợ chồng ông T đổ bê tông, để hai bên sử dụng làm lối đi chung, đlàm tin
cho nội dung trên vợ chồng ông V lập biên bản thoả thuận đngày 06-02-
2004, tờ cam kết với nội dung nếu sau này xảy ra các tranh chấp thuộc phạm
vi con đường diện tích đất đã chuyển nhượng cho vchồng ông T, thì gia
đình ông V đồng ý chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Vợ chồng ông T sử dụng đất, xây dựng khu sinh thái nhiều Bungalow, nhà
trọ cho thuê. Quá trình sử dụng đất đến năm 2020 vợ chồng ông Nguyễn Văn D,
Trương Thị K khởi kiện cho rằng vợ chồng ông T bao chiếm diện tích 332m
2
để làm đường đi, thuộc thửa đất số 99, tờ bản đồ số 38, diện tích 2.970,4m
2
, theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 641669, được UBND huyện (Nay
thành phố) Phú Quốc cấp ngày 15-11-2010, nguồn gốc đất này do vợ chồng ông
D nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông V.
8
Khi bvchồng ông D kiện đòi lại đất, vợ chồng ông T mới biết diện tích đất
này nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông D, do vợ
chồng ông V chuyển nhượng. Vợ chồng ông T, yêu cầu vợ chồng ông V chịu
trách nhiệm vbản thoả thuận ngày 06-02-2004 tờ cam kết nhưng vợ chồng
ông V tchối nghĩa vụ. Do bị bên ông D đổ đá o chắn lối đi, buộc vchồng
ông T phải đồng ý trả giá trị diện tích con đường theo định giá 7.725.000đ x
332m
2
= 2.566.360.000đ (Hai tỷ năm trăm sáu mươi sáu triệu ba trăm sáu mươi
nghìn đồng) cho ông D.
Đối với diện tích đất 311,4m
2
giữa vợ chồng ông T với vợ chồng ông V
đã giải quyết xong, theo quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự
số: 05/2024/QĐST-DS ngày 17-01-2024 của Toà án nhân dân thành phố Phú
Quốc, hiện tại diện tích đất này đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho vợ chồng ông T, các bên không còn tranh chấp.
Nay vợ chồng ông T yêu cầu vợ chồng ông V trả lại giá trị diện tích đất 332m
2
x
7.725.000đ/1m
2
= 2.566.360.000đ (Hai tỷ năm trăm sáu mươi sáu triệu ba trăm
sáu mươi nghìn đồng).
Theo giấy thoả thuận ngày 06-02-2004 thể hiện nội dung “…2. Đồng ý
cho phần đất để ông T mở con đường từ đầu lộ giới đi vào khu dự án với chiều
rộng 4m, kinh phí làm đường do ông T đầu tư. 4. Bên ông Sơn V cam kết nếu
sau này để sảy ra tranh chấp thuộc phạm vi miếng đất con đường đã thoả
thuận thì gia đình ông Sơn V hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
Theo nội dung tờ cam kết ghi “…Nếu sau này sảy ra tranh chấp thuộc phạm
vi miếng đất và con đường rộng là 4m tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm…”.
Quá trình giải quyết vụ kiện thì vợ chồng ông V cho rằng không không
thoả thuận gì với vợ chồng ông T đối với đất làm đường đi, theo giấy thoả thuận
ngày 06-02-2004 (BL15), tờ cam kết (BL16) vợ chồng con ông V chị S
Thuỳ Trang không ký, viết tên không thừa nhận chữ chviết nhưng
không yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết. Tuy nhiên tại phiên tòa thẩm thì
vợ chồng ông V, Ú thừa nhận chữ ký. Đối chiếu với lời khai của chị T1 xác
định chữ ký trong giấy thoả thuận và tờ cam kết là do chị T1 và vợ chồng ông V
ký, viết họ tên, tcam kết do chị chị T1 viết. Đây tình tiết không cần phải
chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Xét lỗi dẫn đến thiệt hại: Vào năm 2004, thời điểm chuyển nhượng đất
cho bên ông T, thì đất không còn của vợ chồng ông V, nếu vợ chồng ông V cho
ông T biết phần đất có con đường đã chuyển nhượng cho ông D thì ông T không
nhận chuyển nhượng (Vì ngoài lối đi này phần đất phía trong không còn lối đi
nào khác). Mặt khác, căn cứ nội dung theo giấy thoả thuận ngày 06-02-2004 thể
hiện nội dung “…4. Bên ông Sơn V cam kết nếu sau này để xảy ra tranh chấp
thuộc phạm vi miếng đất con đường đã thoả thuận thì gia đình ông Sơn V
9
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Theo nội dung tờ cam kết ghi
“…Nếu sau này xảy ra tranh chấp thuộc phạm vi miếng đất con đường
rộng 4m tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm…”. Như vậy, khi vợ chồng ông D
khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông T trả đất, vợ chồng T bỏ ra số tiền
2.566.360.00để trả cho bên ông D, nên vợ chồng ông T yêu cầu vchồng
ông V, bà Ú chịu trách nhiệm trước pháp luật, hoàn trả lại số tiền này cho vợ
chồng ông T hoàn toàn phù hợp với thỏa thuận cam kết giữa các bên,
HĐXX xác định vợ chồng ông T không lỗi lỗi 100% thuộc về vợ chồng
ông V, bà Ú.
Tòa án cấp thẩm buộc vợ chồng ông Sơn V, Thị Ú trả giá trị quyền sử
dụng đất cho ông T diện tích đất 332m
2
= 2.566.360.000đ là phù hợp.
[4] Về chi phí thẩm định: Hoá đơn giá trị gia tăng ngày 09-5-2023 của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố phú Q thu phí bản vẽ là 4.769.820đ,
vợ chồng ông Trọng T, bà Mai Thị M khởi kiện được Toà chấp nhận nên
không phải chịu chi phí này. Vợ chồng ông T đã nộp tạm ứng, nên buộc vợ
chồng ông Sơn V, Thị Ú hoàn trả số tiền này cho vợ chồng ông T là p
hợp.
[5] Các quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ, phù hợp với
quy định của pháp luật. vậy, HĐXX chấp nhận lời đề nghị của vị đại diện
Viện kiểm sát, không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn ông Sơn
V và Hà Thị Ú, giữ nguyên bản án thẩm số 87/2024/DS-ST ngày 11 tháng
6 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
[6] Về án phí dân sự
[6.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Vũ Trọng T, sinh năm 1953, bà Mai Thị
M, sinh năm 1959, ông Sơn V, sinh năm 1956, Thị Ú, sinh năm 1959
người cao tuổi, được miễn án phí.
[6.2] Án pdân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp
nhận nên ông Sơn V Thị Ú mỗi người phải chịu 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng) theo quy định. Tuy nhiên do ông V Ú người cao tuổi
nên không phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn ông Sơn V và
Hà Thị Út .
- Giữ nguyên toàn bộ bản án dân sự thẩm số 87/2024/DS-ST ngày 11
tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
- Căn cứ ccác Điều 146; 157; 158; 227; 228; 266; 271 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015;
10
- Áp dụng các Điều 274; 275; 280; 351; 360 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Áp dụng điểm đ, khoản 1, Điều 12, Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ván
phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Vũ Trọng T,
Mai Thị M về việc buộc vợ chồng ông Sơn V, bà Thị Ú hoàn trả giá trị
quyền sử dụng đất làm lối đi (Ngang 4m x dài 83m = 332m
2
), tại ấp R, H,
thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
2. Buộc vợ chồng ông Sơn V, Thị Ú trả cho ông Trọng T,
Mai Thị M giá trị 332m
2
2.566.360.000đ (Hai tỷ năm trăm sáu mươi sáu triệu
ba trăm sáu mươi nghìn đồng)
3. Về chi pthẩm định: Buộc vợ chồng ông Sơn V, Thị Ú phải trả
cho vợ chồng ông Vũ Trọng T, Mai Thị M số tiền chi phí thẩm định tại chỗ
4.769.820đồng (Bốn triệu bảy trăm sáu mươi chín nghìn tám trăm hai mươi
đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357,
Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Các đương sự được miễn.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự sửa đổi, bổ sung thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Kiên Giang;
- TAND TP Phú Quốc;
- THA TP Phú Quốc;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Bá Kha
11
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa
Trần Bá Kha
12
Tải về
Bản án số 256/2024/DS-PT Bản án số 256/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 256/2024/DS-PT Bản án số 256/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất