Bản án số 248/2025/HC-PT ngày 12/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 248/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 248/2025/HC-PT ngày 12/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 248/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/03/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Văn K, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 248/2025/HC-PT
Ngày 12 tháng 3 năm 2025
V/v: “Khiếu kiện quyết đnh hành chính
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Minh
Ông Ngô Mạnh Cường
- Thư phiên toà: Nguyễn Thị Châu Loan - Thư Toà án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên t: Ông Đỗ Phước Trung - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xphúc thẩm ng khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ
số: 1199/2024/TLPT-HC ngày 06 tháng 12 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết
đnh hành chính.
Do Bản án hành chính thẩm số: 343/2024/HC-ST ngày 31 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 305/2025/QĐ-PT ngày
21 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1953 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số F đường N, Tổ D, Ấp A, N, huyện N, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện ủy quyền của ông Nguyễn Văn K:
1. Ông Nguyễn Đình A, sinh năm 1990 (theo Giấy ủy quyền ngày
05/3/2025) (có mặt);
2
Địa chỉ: Số A H, phường P, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh;
2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1980 (theo Giấy ủy quyền ngày
31/3/2022) (có mặt);
Địa chỉ: Số E Ấp A, xã N, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Ông Nguyễn Tấn P, sinh năm 1987 (theo Giấy ủy quyền ngày
09/10/2024) (có mặt);
Địa chỉ: Số C Ấp A, xã N, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người b kiện: Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Phan Lê N Chức vụ: Phó Chủ tịch
(vắng mặt);
Địa chỉ: Số C N, Ấp A, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện N,
Thành phố Hồ Chí Minh:
1. Ông Đỗ Văn L Chức vụ: Phó trưởng ban bồi thường giải phóng mặt
bằng huyện N (có mặt);
2. Ông Nguyễn Văn T1 Nhân viên phòng nghiệp vụ 2 Ban bồi thường
giải phóng mặt bằng huyện N (có mặt);
3. Ông Nguyễn Văn H Chức vụ: Phó trưởng phòng Phòng Tài nguyên
Môi trường huyện N (vắng mặt);
4. Nguyễn Thị Ngọc T2 Chức vụ: Phó trưởng phòng Phòng pháp
huyện Nhà Bè (có mặt).
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là ông Nguyễn Văn K.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn K, bản tkhai trình bày của
người đại diện theo ủy quyền của ông K:
Đề nghị Tòa án hủy Quyết định số 1942/QĐ-UBND ngày 25/10/2021
về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định đối với ông Nguyễn
Văn K; địa chỉ tại: 5, tổ D, ấp A, N, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh trong
dự án nâng cấp mở rộng đường N, giai đoạn 2; đoạn từ Nguyễn Văn T3 đến
Văn L1. Quyết định bồi thường trên đã làm ảnh hưởng đến cuộc sống kinh tế gia
3
đình ông K; đền bù không đúng với đơn giá đền theo từng loại đất hiện gia
đình ông K đang sử dụng ổn định từ trước đến nay.
Lý do: trong dự án mở rộng và nâng cấp đường N giai đoạn 1, ông K đã
được đền theo loại đất thực tế đang sử dụng. Đất này ông Nguyễn Văn K
nhận chuyên nhượng lại của bà Trương Thị B cất nhà và sử dụng liên tục từ năm
1989 đến nay.
Ngày 04/01/2016, Chi nhánh Văn phòng Đăng Đất đai huyện N đã phê
duyệt bản vẽ hiện trạng nhà đất để ông Nguyễn Văn K hợp thức hóa phần nhà và
đất ông Nguyễn Văn K đang sdụng, do dự án mở rộng nâng cấp đường N
giai đoạn 2, lại bị ảnh hưởng diện tích 15,6m
2
do vậy ông Nguyễn Văn K phải
chỉnh lại bản vẽ nhà đất lần nữa để cắt phần đất 15,6m
2
ra và đã được Chi nhánh
Văn phòng đăng Đất đai huyện N pduyệt ngày 01/07/2020 đlàm hồ
hợp thức hoá nhà đất. Đến ngày 03/11/2021, ông K đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất.
Do bị ảnh hưởng của dự án mở rộng nâng cấp đường N giai đoạn 2, gia
đình ông K không thể hợp thức hóa phần đất 15,6m
2
, nên ông K nhận thấy phần
đất này đền bù theo loại đất trồng cây lâu năm là không đúng với thực tế loại đất
ở hiện nay gia đình ông K đang sử dụng.
Ông Kính yêu C Tòa án tuyên hủy Quyết định bồi thường số 1942/QĐ-
UBND, ký ngày 25/10/2021, do đơn giá bồi thường không đúng với đơn giá đất
ở hiện nay gia đình ông K đang sử dụng ổn định.
Người b kiện là Ủy ban nhân dân huyện N trình bày:
Ông Nguyễn Văn K diện tích 15,6m
2
ảnh hưởng trong dự án nâng cấp
đường N giai đoạn 2, thuộc một phần thửa 1264, tờ bản đồ số 02, N, đất chưa
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 25 tháng 10 năm 2021, Ủy ban nhân dân huyện N ban hành quyết
định thu hồi đất, quyết định phê duyệt Phương án Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
đối với ông Nguyễn Văn K trong dự án Nâng cấp, mở rộng đường N, giai đoạn
2, với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 73.478.592 đồng (Bằng chữ: Bảy mươi
ba triệu, bốn trăm bảy mươi tám nghìn, năm trăm chín mươi hai đồng). Đồng
thời, tổ chức đối thoại, vận động nhận tiền bồi thường, hỗ trợ. Kết quả, ông
Nguyễn Văn K chưa đồng ý nhận tiền bồi thường tiếp tục thực hiện quyền
khởi kiện theo quy định. Số tiền bồi thường, hỗ trợ nêu trên đã được Ủy ban
nhân dân huyện N lập các thủ tục gửi vào tài khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà
nước huyện N theo quy định.
Qua soát hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hồ bồi
thường đường N giai đoạn 1 (Hương lộ C) đối với ông Nguyễn Văn K, diện tích
đất được công nhận đã vượt hạn mức đất theo Quyết định s18/2016/QĐ-
UB ngày 16 tháng 5 năm 2016 của Ủy ban nhân dân Thành phố H quy định hạn
4
mức đất tại Thành phố Hồ Chí Minh (cụ thể: Tổng diện tích đất được cấp
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành DC 602380, số vào số
CH 09566, thuộc thửa 446, tờ bản đồ s40, N (thửa 446 chiết từ thửa 38, tờ
bản đồ số 40, xã N); Theo tài liệu 02/CT-UB thuộc thửa 1263 và 1264, tờ bản đồ
số 02, xã N diện tích là 285,8m
2
và diện tích 37,7m
2
đất ở được bồi thường trong
dự án đường N giai đoạn 1, dự án hương lộ C.
Như vậy, qua soát hồ pháp đối với ông Nguyễn Văn K trong dự án
Nâng cấp, mở rộng đường N giai đoạn 2, Ủy ban nhân dân huyện N nhận thấy
đã thực hiện theo đúng quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các quy định
hướng dẫn hiện hành.
Tại Bản án hành chính thẩm số: 343/2024/HC-ST ngày 31 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết đnh:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều
116; điểm b khoản 2 Điều 157; khoản 1 Điều 158; điểm a điểm b khoản 2
Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ Điều 115, điểm a khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính
năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Bác yêu cầu khởi kiện: Tuyên hủy Quyết định số: 1942/QĐ-UBND
ngày, 25/10/2021 về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định với
ông NguyễnVăn Kính
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 09/8/2024, người khởi kiện ông Nguyễn Văn K kháng cáo đề nghị
sửa bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Nguyễn Đình A,
ông Nguyễn Tấn P và ông Nguyễn Văn T thống nhất trình bày:
Nguồn gốc phần diện tích 15,6m
2
đất do ông Nguyễn Văn K nhận
chuyển nhượng của Trương Thị B từ năm 1989. Tại Văn bản xác nhận số
16/XN-UB ngày 09/11/2018 của Ủy ban nhân dân xã N thì phần diện tích
15,6m
2
đất thuộc thửa đất số 38 một phần của thửa đất s1264, loại đất thổ
vườn, mái che do ông Nguyễn Văn K đã xây dựng vào tháng 4/2004, không
bị xphạt vi phạm hành chính. Ngoài ra, phần diện tích 15,6m
2
nằm trong tổng
5
thể phần diện tích đất được hộ gia đình ông Nguyễn Văn K sử dụng liên tục, ổn
định, có đăng ký kê khai và đóng thuế đầy đủ cho Nhà nước đối với loại hình đất
ở. Toàn bộ phần diện tích đất của hộ gia đình ông K có từ trước khi dự án đường
N được triển khai. Gia đình ông đã đi đăng khai để xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đồng thời thuê công ty đến đo vẽ. Văn phòng đăng
đất đai cũng đã xác nhận phần diện tích nêu trên đủ điều kiện đcấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất ở. Do đó, phần diện tích đất nêu trên
phải được xác định loại đất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 20 Luật
Đất đai năm 2013 và điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày
06/01/2017. Từ những căn cứ pháp nêu trên cùng quá trình sử dụng đất, ông
K có đầy đủ các điều kiện để được bồi thường giá trị đất ở đối với phần diện tích
15,6m
2
.
Phần diện tích đất của ông K bị thu hồi tại giai đoạn 1 nằm cùng thửa với
phần diện tích đất bị thu hồi tại giai đoạn 2. Tuy nhiên, giai đoạn 1 thì ông K
được bồi thường theo đơn giá đất ở, còn phần diện tích đất 15,6m
2
bị thu hồi tại
giai đoạn 2 chỉ được bồi thường theo đơn gđất trồng cây lâu năm. Phần diện
tích 15,6m
2
bNhà nước thu hồi trước khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Hầu hết các hộ gia đình nhà nằm trên đường N bị ảnh hưởng đều
được bồi thường theo đơn giá đất nông nghiệp nên đã khiếu nại được chuyển
sang bồi thường theo đơn giá đất ở. Trong hồ vụ án có Quyết định số
647/QĐ-UB (bút lục số l77) về việc giải quyết khiếu nại đối với bà Trương Thị
B liên quan đến phần diện tích đất được công nhận vượt hạn mức và có tính chất
tương tự như vụ án của ông K mà được bồi thường đất ở.
Ngoài ra, Ủy ban nhân dân huyện N ban hành quyết định thu hồi đất vào
thời điểm dịch bệnh, ông K không thể đi khiếu nại nên bị trễ thời hạn khiếu nại
theo quy định.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn
K, sửa bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người b kiện là ông Nguyễn Văn
T1 trình bày:
Năm 2024, Ủy ban nhân dân huyện N đã tiến hành việc bồi thường đối với
phần diện tích đất của ông Nguyễn Văn K bị thu hồi tại giai đoạn 1 của dự án là
đất ở. Theo Quyết định s18/2016/QĐ-UB ngày 16/5/2016 của Ủy ban nhân
dân Thành phố H, hạn mức đất ở tại xã N là 300m
2
, trong khi đó hộ gia đình của
ông Nguyễn Văn K đã được công nhận vượt hạn mức đất 323,5m
2
, gồm:
37,7m
2
dự án mở rộng đường N giai đoạn 1 285,8m
2
theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DC 602380. Phần diện tích 15,6m
2
của ông K thuộc một
phần thửa 1264, tờ bản đồ số 02, N một phần thửa 38, tờ bản đồ số 40,
N bị ảnh hưởng trong dán tại giai đoạn 2 được xác định đất trồng cây lâu
năm. Mặt khác, phần diện tích 15,6m
2
phần diện tích đất nằm ngoài diện tích
được công nhận là đất ở và cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
6
đất nên việc Ủy ban nhân dân huyện N áp dụng đền theo đơn giá đất trồng
cây lâu năm là có căn cứ.
Đối với phần diện tích đất của Trương Thị B, đất nguồn gốc từ trước
năm 1980, chưa được công nhận quyền sử dụng đất, B cũng chưa được xem
xét bồi thường tại cả hai giai đoạn của dự án, trong khi đó ông K đã được xét bồi
thường tại giai đoạn 1 trước đó.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét x không chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn Văn K, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh tham gia phiên toà:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xđã thực hiện đúng các quy định
của Luật tố tụng hành chính về phiên tòa phúc thẩm. Những người tham gia tố
tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định.
Về nội dung: Theo Giấy xác nhận số 16/XN-UB ngày 09/11/2018 của Ủy
ban nhân dân N xác nhận phần diện tích đất nêu trên nằm trong thửa đất mà
ông Nguyễn Văn K nhận chuyển nhượng từ Trương Thị B vào năm 1989.
Năm 2018, B đăng biến động thu hồi phần diện ch 15,6m
2
nằm trong
ranh mở rộng giai đoạn 2 để lập hồ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông K. Đến năm 2021, ông K được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số vào sổ CH 09566 bao gồm phần diện tích 285,8m
2
cộng với diện tích
37,7m
2
đất được bồi thường tại giai đoạn 1. Như vậy tổng diện tích đất được
công nhận đã vượt quá hạn mức quy định. Từ đó sxác định phần diện
tích 16,5m
2
đất thu hồi phần diện tích đất vượt quá hạn mức. Do đó, đề nghị
Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn K, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên
tòa, kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa, đủ sở để kết luận: Toàn bộ
diễn biến vụ án như phần tóm tắt nội dung đã được viện dẫn trên. Xét kháng
cáo của ông Nguyễn Văn K, trên sxem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu,
chứng cứ, ý kiến của các đương sự, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện N người đại diện theo ủy
quyền ông Võ Phan Nguyễn C1 văn bản đề nghị xét xvắng mặt. Căn cứ
khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính 2015, Tòa án tiến hành phiên tòa
phúc thẩm xét xử vắng mặt người bị kiện.
7
[1.2] Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết:
Ngày 21/7/2022, ông Nguyễn Văn K khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số
1942/QĐ-UBND ngày 25/10/2021 của Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố
Hồ Chí Minh về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định đối
với hộ ông K là khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai,
thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính tại Tòa án, còn thời hiệu khởi
kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều
116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành
Nngày 21/3/2019, Ủy ban nhân dân huyện N ban hành Quyết định số
573/QĐ-UBND về việc thành lập Hội đồng Bồi thường, hỗ trợ, tái định của
Dự án đầu xây dựng công trình Nâng cấp, mrộng đường N, giai đoạn 2
(đoạn từ Nguyễn Văn T3 đến L), huyện N.
Ngày 25/10/2021, Ủy ban nhân dân huyện N p duyệt Chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư số 03/CSBT-HĐBT của Hội đồng Bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư dự án Nâng cấp, mở rộng đường N giai đoạn 2 (đoạn từ Nguyễn Văn
T3 đến L).
Ngày 25/10/2021, Ủy ban nhân dân huyện N ban hành Quyết định số
1833/QĐ-UBND về việc thu hồi của ông Nguyễn Văn K diện tích 15,6m
2
đất
thuộc một phần thửa số 1264, tờ bản đồ số 02một phần thửa 38, tờ bản đồ s
40 N ảnh hưởng trong dự án Nâng cấp, mở rộng đường N giai đoạn 2 thực
hiện dự án Nâng cấp, mở rộng đường N giai đoạn 2.
Cùng ngày 25/10/2021, Ủy ban nhân dân huyện N ban hành Quyết định số
1942/QĐ-UBND về pduyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cho
ông Nguyễn Văn K với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ 73.478.592 đồng, là đúng
trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 66; các Điều
62, 63, 69; 88, 89, 90 Luật đất đai năm 2013;
[2.2] Về nội dung
Ông Nguyễn Văn K yêu cầu được bồi thường 15,6m
2
đất bị ảnh hưởng bởi
dự án Nâng cấp đường N giai đoạn 2, theo giá đất ở.
Xét thấy, ông K sử dụng khu đất có tổng diện tích 339,1m
2
thuộc một phần
thửa đất số 1263 1264, tờ bản đồ số 02 thửa đất số 38 tbản đồ số 40, xã
N (Tài liệu bản đồ địa chính số) nguồn gốc đất nhận chuyển nhượng của
Trương Thị B năm 1989; nhà do ông Nguyễn Văn K cất năm 1989. Theo sổ bộ
8
địa chính tài liệu bản đồ 299/TTg phần thửa 1263 1264 thuộc thửa 535 (loại
đất mùa), tờ bản đồ số 02, xã N, do Ủy ban xã N tạm đăng ký.
Căn cứ hồ đăng cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đính kèm bản vẽ sơ đồ nhà đất số
219/ĐĐ/TL2020 lập ngày 22/6/2020 do Công ty TNHH Đ lập, tại vị trí tiếp giáp
ranh dự án đường N giai đoạn 2 (phần diện tích ngoài ranh dự án) không ghi
nhận cấu trúc công trình trên đất, hiện trạng là sân.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai:
“… Trường hợp thửa đất nhà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công
nhận đất thì diện tích đất được công nhận bằng hạn mức công nhận đất ;
trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn
hơn hạn mức công nhận đất thì công nhận diện tích đất theo thực tế đã xây
dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó”.
Căn cứ Quyết định số 18/2016/QĐ-UB ngày 16/5/2016 của Ủy ban nhân
dân Thành phố H quy định hạn mức đất tại N 300m
2
. Trường hợp ông
Nguyễn Văn K đã được công nhận vượt hạn mức đất 323,5m
2
, gồm: 37,7m
2
dự án mở rộng đường N giai đoạn 1 285,8m
2
theo Giấy chứng nhận số DC
602380, số vào sổ CH 09566 ngày 03/11/2021.
Phần diện ch 15,6m
2
thuộc phần thửa 1264 tbản đồ số 02 một phần
thửa số 38 tờ bản đồ số 40 N ảnh hưởng trong dự án Nâng cấp, mở rộng
đường N giai đoạn 2 được xác định đất trồng cây lâu năm, nằm ngoài diện
tích được công nhận đất đất cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nên Ủy ban nhân dân huyện N áp giá đền bù cho ông K theo loại đất
trồng cây lâu năm đối với diện tích này căn cứ, đúng quy định tại khoản 1
Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn K, giữ nguyên các quyết định của
bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí hành chính phúc thẩm: Người khởi kiện ông Nguyễn Văn
K là người cao tuổi và có đơn yêu cầu nên được miễn.
Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
9
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội;
Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Văn K, giữ nguyên quyết
định của bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn K đối với yêu cầu hủy
Quyết định số 1942/QĐ-UBND ngày 25/10/2021 của Ủy ban nhân dân huyện N,
Thành phố Hồ Chí Minh về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
với ông Nguyễn Văn K.
2. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn K được miễn.
3. Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND TP. Hồ Chí Minh;
- Cục THADS TP. Hồ Chí Minh;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA (NTCL)(20).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Hòa Hiệp
Tải về
Bản án số 248/2025/HC-PT Bản án số 248/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 248/2025/HC-PT Bản án số 248/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất