Bản án số 22/2024/DS-ST ngày 07/05/2024 của TAND Q. Sơn Trà, TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 22/2024/DS-ST ngày 07/05/2024 của TAND Q. Sơn Trà, TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Sơn Trà (TAND TP. Đà Nẵng)
Số hiệu: 22/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/05/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp thuê nhà bà M, bà Đ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hạnh
Các hội thẩm nhân dân: 1. Ông Đoàn Văn Đức
2. Bà Vũ Thị Lệ Thủy
- Thư ký phiên tòa: Ông Lã Phú Huy Thư ký tòa án nhân dân quận S TP Đà Nẵng.
- Đại diện VKS nhân dân quận S tham gia phiên tòa: Nguyễn Thị Ngọc Q -
Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận S xét xử thẩm
công khai vụ án dân sự thụ số 198/2024/TLST-DSST ngày 11 tháng 10 năm 2023
về việc Tranh chấp hợp đồng thuê nhà” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
198/20232/QĐXX-ST ngày 18 tháng 3 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số
37/2024/QĐST-HPT ngày 03 tháng 4 năm 2024 quyết định hoãn phiên tòa số 44
ngày 23/4/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Trần Thị Quế M sinh năm: 1980 HKTT: 02 L, phường
H, quận H, thành phố Đà Nẵng. Chỗ hiện nay: E H, phường H, quận C, Đà Nẵng.
Có mặt.
- Bị đơn: Đỗ Thị Minh Đ sinh năm: 1962 Địa chỉ: F P, tổ I phường T,
quận S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Văn N - sinh năm 1981; Địa chỉ: tổ I phường T, quận S, Đà
Nẵng. có mặt.
Ông Đặng Quang T sinh năm: 1984- Địa chỉ: F P, tổ I phường T, quận S,
thành phố Đà Nẵng. có mặt
- Người làm chứng: Ông Thanh H, sinh năm: 1976, Địa chỉ: G T, phường
H, quận C, Đà Nẵng. có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 15/8/2023 Trần Thị Quế M, tại phiên tòa m
nay nguyên đơn bà Trần Thị Quế M trình bày:
là chủ shữu nhà đất tại thửa đất số 74, tờ bản đsố 118 được UBND
quận S theo Giấy chứng nhận số CH 01254, cấp ngày 25/02/2022 với diện tích
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 22/2024/DS-ST
Ngày: 07-5-2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2
61,8m
2
(DTXD nhà 58,1m
2
DTSD nhà ở 96,0m
2
) địa chỉ tại số F đường P,
tổ I phường T, quận S, Đà Nẵng. mua nhà đất này từ ông Nguyễn Văn N sinh
năm 1981 Địa chỉ: tổ I phường T, quận S, Đà Nẵng tại VP Công chứng Đặng Duy
H1 được chỉnh lý biến động sang tên cho Trần Thị Quế M vào ngày 25/02/2022.
Thời điểm mua nhà đất này thì nhà đất này hiện ông N đang thế chấp cho Ngân
hàng TMCP P thế phải đưa tiền cho ông N đi xóa thế chấp đchuyển nhượng
qua tên cho bà. Khi xuống mua nhà thì bà có hỏi Đ Đ nói Đ đã bán nhà
cho ông N hiện chỉ người thuê nhà của N, mọi việc mua bán đất thì cứ liên hệ
với ông N. Sau khi mua nhà của ông N thì ông N xin cho Đ tiếp tục lại nhà
và ký hợp đồng thuê nhà.
Ngày 08/03/2023, Đ hợp đồng thuê nhà, thời hạn cho thuê 03
tháng k t ngày 08/03/2023 đến ngày 08/6/2023, giá thuê 3.000.000 đồng/1
tháng, không bao gồm các chi phí khác, hai bên thỏa thuận tiền thuê nhà giao hàng
tháng vào ngày 10 của tháng. Tiền đặt cọc thuê nhà 1.000.000 đồng (một triệu
đồng) giao ngay sau khi ký hợp đồng và được hoàn trả khi chấm dứt hợp đồng thuê.
Tại điều 4 của Hợp đồng các bên thỏa thuận bên A chỉ cho thuê 03 tháng, sau
đó lấy lại nhà để kinh doanh bên B trách nhiệm đóng tiền nhà đầy đủ giữ
nguyên hiện trạng nhà, bảo quản, tu sửa lại nhà nếu hư hỏng.
Sau khi hợp đồng đã nhận tiền cọc 1.000.000 đồng. Đến ngày 10/06/2023
do nhu cầu giải quyết chỗ ở nên bà đã trao đổi với bà Đ về việc lấy lại nhà và cũng đã
hết thời hạn hợp đồng. Mặt khác, Đ không thực hiện chuyển tiền thuê nhà; đã
nhiều lần liên hệ làm việc nhưng bà Đ vẫn cố tình không bàn giao nhà cho bà. Bà xác
định những tài sản trong nhà Đ đang sinh sống không tài sản nào thuộc quyền
sở hữu của tôi.
Theo đơn khởi kiện bà M yêu cầu Tòa án giải quyết những nội dung sau:
1. Chấm dứt hợp đồng thuê nhà ngày 08/03/2023 giữa Trần Thị Quế M
Đỗ Thị Minh Đ đối với nhà đất tại F P, phường T, quận S, Đà Nẵng.
2. Buộc bà Đỗ Thị Minh Đ phải trả tiền thuê nhà 12 tháng từ 08/03/2023 đến
07/3/2024 số tiền là 3.000.000 đồng × 12 = 36.000.000 đồng.
3. Buộc Đỗ Thị Minh Đ thu dọn tài sản di chuyển chỗ khác, trả lại nhà
đất ở địa chỉ trên cho bà M.
Tại phiên tòa, M rút một phần yêu cầu khởi kiện không yêu cầu bà Đ phải
thanh toán tiền thuê nhà cho bà.
* Tại bản tự khai, các biên bản hòa giải bị đơn Đỗ Thị Minh Đ trình
bày ý kiến sau:
Do gặp khó khăn về tài chính nên vào ngày 24/12/2019, bà chuyển nhượng cho ông
Nguyễn Văn N nhà đất tại thửa đất số 74 bản đồ 118 địa chỉ tại F P, phường T,
quận S, Đà Nẵng với giá 3.270.000.000 đồng (Ba tỷ hai trăm bảy mươi triệu đồng)
tại phòng C, quận S, Đà Nẵng. Sau đó, ông N đưa cho bà số tiền 370.000.000
đồng Ông N viết lại giấy nợ của 2.900.000.000 đồng. Sau đó đến tháng
02/2022, ông N chuyển nhượng nđất cho bà Trần Thị Quế M. Thời gian này,
vẫn sinh sống tại ngôi nhà trên do ông N vẫn còn nợ tiền của bà. Khi M đến mua
nhà và hỏi nhà đất nàycủa ai thì bà có trả lời là ngôi nhà này bà đã bán cho ông N
và hiện bà đang thuê lại của ông N để sinh sống.
Ngày 08/03/2023, M làm Hợp đồng thuê nhà trong 3 tháng từ ngày
3
08/3/2023 đến ngày 08/6/2023, tiền thuê 3.000.000/tháng, tiền cọc là 1.000.000 đồng
được giao sau khi ký kết hợp đồng giữa bà M và ông N thỏa thuận tiền thuê nhà
do ông N trả. Do đó ông N đã trả tiền thuê nhà cho bà M chưa thì bà không rõ.
Nay M kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê nhà thu dọn tài sản thì
đồng ý trả lại nhà nếu ông N thanh toán đủ cho số tiền 2.900.000.000 đồng hoặc
mua cho một căn nhà giá trị tương ứng với số tiền ông N còn nợ. Ngoài ra, bà
xác định căn nhà toàn bộ tài sản của một mình xây dựng, những tài sản trong
nhà bà đang sinh sống không tài sản nào thuộc quyền sở hữu của M ông N
mà toàn bộ tài sản trong nhà thuộc sở hữu của bà và con trai bà ông Đặng Quang T.
Ngƣời quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đặng Quang T ý kiến trình
bày: Nhà đất tại F P, phường T, quận S nhà của mẹ ông - Đỗ Thị Minh Đ.
Tháng 12/2019 Đ chuyển nhượng nhà đất cho ông N tại văn phòng C1 với g
3.270.000.000đồng. Ông N mới trả được 370.000.000đồng còn nợ lại bà Đ số tiền
2.900.000.000đồng. Ông N viết giấy xác nhận nợ. ông N chưa trả đủ tiền nên
02 mẹ con tôi vẫn sống tại ngôi nhà trên. m 2022, ông N bán nhà cho M, việc
bán nhà ông N không trao đổi với mẹ con ông chỉ tới khi M tới thông báo việc
mua lại nhà đất trên thì ông mới biết sviệc. ông N đã hứa thu xếp trả tiền sớm
nên để kéo dài thời gian mẹ ông đã hợp đồng thuê nhà với bà M, các bên thỏa
thuận ông N sẽ trả tiền thuê nhà. Việc ông N bán nhà cho M lấy tiền nhưng
không trả cho mẹ ông làm ảnh hưởng tới quyền lợi của mẹ ông. Nay M u cầu
chấm dứt hợp đồng thuê và trả nhà cho bà M thì ông không đồng ý giao nhà, đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật buộc ông N phải trả tiền cho mẹ ông.
Nhà đất trên thuộc sở hữu của mẹ tôi do mẹ tôi xây dựng. Những tài sản trong nhà
thuộc sở hữu của mtôi và tôi không có bất cứ tài sản gì trong nhà thuộc sở hữu của
ông N và bà M.
Ngƣời quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn N trình bày:
Năm 2019, ông mua nhà đất tại địa chỉ: F P, phường T, quận S của Đỗ Thị
Minh Đ với số tiền 3.270.000.000 đồng. Thời điểm đó Đ thế chấp tài sản trên
tại Ngân hàng N1 và P1 chi nhánh quận S. Ông có đưa cho bà Đ số tiền 100.000.000
đồng để làm thủ tục xóa thế chấp vay tiền tại Ngân hàng. Sau đó, ông đưa
thêm cho Đ 270.000.000 đồng như vậy tổng số tiền ông đã đưa cho bà Đ là
370.000.000 đồng và nbà Đ số tiền là 2.900.000.000 đồng. Đến 31/12/2019, ông
thế chấp căn nhà trên tại Ngân hàng TMCP P2 Chi nhánh Đ2 số tiền
2.900.000.000 đồng lấy tiền đkinh doanh. Đến tháng 02/2022 ông bán ngôi nhà
trên cho Trần Thị Quế M thời điểm này tài sản trên ông đang thế chấp tại Ngân
hàng TMCP P2 Chi nhánh Đ3 nên bà M trả tiền cho Ngân hàng để xóa thế chấp và
ông N sẽ làm thủ tục mua bán sang tên cho M tại Văn phòng C2 với giá
3.050.000.000 đồng. Tháng 03/2023 ông thông báo cho Đ biết tài sản ông đã
bán cho bà M nên Đ M hợp đồng thuê nhà. Trong thời gian ông còn
nợ Đ số tiền 2.900.000.000 đồng (Hai tỷ chín trăm triệu đồng), ông đã cố gắng
tìm một ngôi nhà khác tương ứng với khoản nợ cho bà Đ. Tuy nhiên những ngôi nhà
và lô đất ông đưa bà Đ đi coi thì bà đều từ chối nhận do bà Đ không ưng.
Nay M kiện tôi yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê nhà yêu cầu bà Đ thu
dọn tài sản bàn giao căn nhà lại cho bà M thì tôi ý kiến: Tôi thống nhất nội dung
khởi kiện trên của M.Đối với số tiền thuê nhà 36.000.000 đồng mà bà M yêu cầu
4
Đ thì ông sẽ có trách nhiệm trả số tiền này cho bà M.
Ngƣời làm chứng ông Thanh H trình bày ý kiến: Ông không liên quan
đến chuyển nhượng mua bán nđất tại F P, phường T, quận S, Đà Nẵng. Tuy nhiên
vào ngày 08/3/2023 khi đang đi công việc với M thì M nhông cùng xuống
nhà bà Đ để giải quyết một số việc. Khi xuống đến nơi, bà M có mời công an khu vực
cùng xuống để làm việc. Tại nhà Đ, lúc này M, Đ, ông N con trại
Đ, sau đó ông làm chứng trong Hợp đồng thuê nhà ngày 08/3/2023 giữa
Trần Thị Quế M với Đỗ Thị Minh Đ. Mọi việc sau này các bên t giải quyết với
nhau, ông không được thông tin lại.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S phát biểu về sự
tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử của các
đương sự. Theo đó: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng pháp luật từ
khâu thụ lý, hòa giải, thu thập chứng cứ mở phiên tòa xét xử đúng nguyên tắc
chung. Nguyên đơn M, bị đơn bà Đ chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng,
Riêng người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông N, ông T không tham gia đầy đủ
các phiên hòa giải và phiên tòa.
Về nội dung vụ án: Căn cứ các điều Điều 472, Điều 481, Điều 482 Bộ luật dân
sự, khoản 1 Điều 129, điểm a khoản 2 Điều 131 Luật Nhà ở năm 2014
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện Tranh chấp hợp đồng thuê nhà giữa Trần Th
Quế M đối với bà Đỗ Thị Minh Đ và đề nghị Hội đồng xét xử:
Chấm dứt hợp đồng thuê nhà kết ngày 08/3/2023 giữa Trần Thị Quế M
với bà Đỗ Thị Minh Đ.
Buộc Đỗ Thị Minh Đ ông Đặng Quang T phải thu dọn tài sản di chuyển
đi chỗ khác, buộc ra khỏi nđtrả lại nhà đất tại F P, phường T, quận S, Đà Nẵng
cho bà Trần Thị Quế M.
Tại phiên tòa, M rút một phần yêu cầu khởi kiện buộc Đ phải trả tiền
thuê nhà là 36.000.000 đồng đề nghị HĐXX chấp nhận.
Về án phí: Đ người cao tuổi đơn đề nghị miễn án pnên được
miễn án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên toà
và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về phần thủ tục: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà giữa Trần Thị Quế M
đối với Đỗ Thị Minh Đ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận S
theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng
dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
Sau khi nhận chuyển nhượng nhà và đất tại F P, phường T, quận S, Đà Nẵng từ
ông Nguyễn Văn N với giá 3.050.000.000 đồng, bà M tiếp tục cho gia đình bà Đỗ Thị
Quỳnh Đ1 lưu trú lại một thời gian ngắn để Đ1 di chuyển đồ đạc đến chỗ mới,
hai bên hợp đồng thuê nhà vào ngày 08/3/2023, bà M, Đ1 ký kết Hợp đồng
thuê nhà trong thời hạn 03 tháng, giá thuê là 3.000.000 đồng/tháng. Hết thời hạn thuê
5
nhà, bà Đ1 và gia đình vẫn tiếp tục cư trú tại đó và không có ý định trả lại nhà nên bà
M yêu cầu Tòa án chấm dứt hợp đồng thuê nhà giữa M Đ1 ngày
08/3/2023, buộc Đỗ Thị Minh Đ và nhng người liên quan phải thu dọn tài sản và
trả lại nhà cho bà.
Bị đơn Đ xác định vào năm 2019 chuyển nhượng nhà đất tại F P, phường
T, quận S, Đà Nẵng cho ông Nguyễn Văn N với giá 3.270.000.000 đồng, tuy nhiên
ông N mới thanh toán cho số tiền 370.000.000 đồng, còn nợ lại 2.900.000.000
đồng. Sau đó ông N bán lại nhà cho M. Ngày 08/3/2023 M hợp đồng
thuê nhà thời gian 3 tháng từ ngày 08/3/2023 đến ngày 08/6/2023. Nay M yêu cầu
chấm dứt hợp đồng thuê nhà bà đồng ý, tuy nhiên bà đề nghị ông N phải trả cho bà số
tiền nợ 2.900.000.000 đồng hoặc mua cho 1 căn nhà giá tương đương thì sẽ
bàn giao nhà đang thuê cho bà M.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy :
[3.1] Về nguồn gốc nhà đất tại thửa đất 74, tờ bản đồ 118 địa chỉ F P,
phường T, quận S, TP Đà Nẵng trước đây đứng n Đỗ Thị Minh Đ theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số BE 579 018 do UBND quận S cấp ngày 10/6/2011. để tiền chi trả các nghĩa
vụ của nhân nên Đ đã chuyển nhượng lại nhà đất trên cho ông Nguyễn Văn N
tại Văn phòng C1 ngày 24/12/2019. Ngày 25/12/2019 được Văn phòng Đ4 chi nhánh
quận S chỉnh lý biến động sang tên ông Nguyễn Văn N trong Giấy chứng nhận. Ngày
23/02/2022, ông N chuyển nhượng nhà đất này cho Trần Thị Quế M tại Văn
phòng C2 chỉnh biến động tại Văn phòng Đ4 chi nhánh quận S sang tên M
vào ngày 25/02/2022.
[3.2] Đối với hợp đồng thuê nhà giữa Trần Thị Quế M Đỗ Thị Minh
Đ thì thấy:
Theo khai nhận của các đương sự: Sau khi nhận chuyển nhượng nhà và đất nêu
trên từ ông N sang cho M thì Đ vẫn nhu cầu tiếp tục được thuê nhà trong
lúc ông N tìm cho Đ căn nhà khác để di chuyển đồ đạc đến chỗ ở mới nên giữa
M Đ đã hợp đồng thuê nhà trong thời hạn 03 tháng ktừ ngày 08/03/2023
đến 08/06/2023, giá thuê là 3.000.000 đồng/tháng, đặt cọc 1.000.000 đồng.
Xét thấy hợp đồng thuê nhà giữa M Đ được kết trên sở tự
nguyện, không trái pháp luật, đạo đức hội, tuân thủ các quy định của pháp luật về
nội dung và hình thức tại Điều 472 BLDS năm 2015 Khoản 1 Điều 129 Luật Nhà
năm 2014 nên được pháp luật thừa nhận bảo vệ. Các bên tham gia trong giao
dịch này có mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết.
Căn cứ theo Điều 4 của Hợp đồng Bên A (bà M) chỉ cho bên B thuê 3 tháng.
Sau thi gian 3 tháng bên A lấy lại tài sản khi hết hạn Hợp đồng thuê;” Tính đến
thời điểm hiện nay, Hợp đồng thuê nhà giữa M Đ đã hết hạn thuê tngày
08/6/2023. Do đó đủ căn cứ để chấm dứt hợp đồng thuê nhà nêu trên. Theo biên
bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án ngày 21/12/2023, hiện nay ông Đặng
Quang T con trai của Đ đang sinh sống tại địa chỉ F P, phường T, quận S, Đà
Nẵng nên cần buộc Đỗ Thị Minh Đ ông Đặng Quang T phải thu dọn tài sản di
chuyển đi chỗ khác, buộc ra khỏi nhà để trả nhà cho Trần Thị Quế M theo quy
định điểm a Khoản 2 Điều 131 Luật Nhà ở năm 2014, khoản 1 Điều 482 Bộ luật dân
sự.
6
[4] Đối với yêu cầu trả tiền thuê nhà:
Tại đơn khởi kiện các biên bản hòa giải M yêu cầu Đ trách nhiệm
trả tiền thuê nhà từ ngày 08/3/2023 cho đến ngày 08/3/2024 36.000.000 đồng. Tuy
nhiên tại phiên tòa, M rút yêu cầu đòi tiền thuê nhà nhằm hỗ trợ cho Đ trong
việc đi tìm nhà thuê mới. Xét thấy, việc rút yêu cầu về việc đòi tiền thuê nhà của
M tự nguyện, không trái quy định pháp luật lợi cho bà Đ nên Hội đồng xét
xử chấp nhận.
[5] Về chi phí xem xét xem xét thẩm định tại chỗ: Trần Thị Quế M tự
nguyện chịu (đã nộp và thanh toán xong).
[6] Đối với tranh chấp về khoản tiền nợ mua nhà đất giữa Đỗ Thị Minh Đ
ông Nguyễn Văn N sđược giải quyết bằng 1 vụ án khác nên Hội đồng xét xử
không đề cập giải quyết.
[7] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về nội dung giải quyết vụ án phù hợp với
nhận định của HĐXX nên chấp nhận.
[8] Án phí dân sự thẩm: Đỗ Thị Minh Đ được miễn án phí do người
cao tuổi (có đơn xin miễn nộp tiền tạm ứng án phí ngày 11/12/2023).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố
tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 472, 481, 482 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 1 Điều 129, điểm a khoản 1 Điều 133 Luật Nhà ở năm 2014
- Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm đ khoản 1 Điều 12 Ngh quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận đơn khởi kiện của Trần Thị Quế M đối với Đỗ Thị Minh Đ
về việc Tranh chấp hợp đồng thuê n
Tuyên xử:
1. Chấm dứt hợp đồng thuê nhà kết ngày 08/3/2023 giữa Trần Thị Quế
M và bà Đỗ Thị Minh Đ.
2. Buộc Đỗ Thị Minh Đ ông Đặng Quang T thu dọn tài sản di chuyển đi
chỗ khác, buộc ra khỏi nhà để trả nhà đất tại địa chỉ F P, phường T, quận S, Đà Nẵng
cho bà Trần Thị Quế M.
3.Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Trần Thị Quế M tnguyện chịu
Bà M đã nộp và thanh toán xong.
4. Án phí DSST: Đ người cao tuổi đơn xin miễn tiền án phí ngày
11/12/2023 do đó được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
Hoàn trả lại cho Trần Thị Quế M số tiền tạm ứng án phí 525.000 đồng
(Năm trăm hai ơi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 002056 ngày 11/10/2023
tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.
Báo cho nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại
phiên a biết quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
thẩm.
7
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân sự,
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Nơi nhận:
- VKSND quận S, TP. ĐN;
- Chi cục THADS quận S, TP. ĐN;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Hạnh
8
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Tải về
Bản án số 22/2024/DS-ST Bản án số 22/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 22/2024/DS-ST Bản án số 22/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất