Bản án số 22/2020/HS-ST ngày 04/06/2020 của TAND huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 22/2020/HS-ST ngày 04/06/2020 của TAND huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lý Nhân (TAND tỉnh Hà Nam)
Số hiệu: 22/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/06/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LÝ NHÂN
TỈNH HÀ NAM
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 22/2020/HS-ST
Ngày: 04 - 6 - 2020
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đỗ Quốc Huy.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Quyên và bà Lê Thị Thu Hiền.
- Thư phiên toà: Ông Nguyễn Trọng Hiếu - Thư Toà án nhân dân
huyện Lý Nhân.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhân tham gia phiên toà:
Ông Trần Xuân Sáng - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhân,
tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thẩm thụ lý số
22/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 22/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn N, sinh năm 1977 tại Hưng Yên; nơi trú: Khu phố K,
phường L, thành phố H, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá:
Lớp 9; n tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;
con ông: Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị L; vợ: Đỗ Thị H; con có 02 con, con
lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại
ngoại; đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
- Bị hại: + Ông Trần Bá N, sinh năm 1958 (đã chết);
+ Bà Đào Thị K, sinh năm 1965;
Nơi cư trú: Thôn 4 Đ, xã C, huyn L, tỉnh Hà Nam.
Người dại diện hợp pháp của bị hại - ông Trần Bá N:
+ Bà Đào Thị K, sinh năm 1965 - vợ ông N;
+ Chị Trần Thị N, sinh năm 1991 - con ông N;
+ Anh Trần Bá N, sinh năm 1997 - con ông N;
Cùng i cư trú: Thôn 4 Đ, xã C, huyn L, tỉnh Hà Nam.
Người đại diện theo uỷ quyền của Khuể, anh Nam: Chị Trần Thị N,
sinh năm 1991; nơi trú: Thôn 4 Đ, C, huyện L, tỉnh Nam. đơn đề
nghị xét xử vắng mặt.
2
- Bị đơn dân sự: Công ty Trách nhiệm hữu hạn và Thương mại
(TNHH&TM) H; địa chỉ công ty: Số 74, đường L, phường L, thành phố H, tỉnh
Hưng Yên.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Việt T, chức vụ: Giám đốc
công ty.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Anh T, chức vụ: Quản của
công ty. Vắng mặt.
- Nời làm chứng: Anh Vũ n S, ch Cao ThThu T; đều vắng mt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Xe ô biển kiểm soát 89C-148.22 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Thương mại (viết tắt TNHH&TM) H; địa chỉ công ty: Số 74, đường L,
phường L, thành phố H, tỉnh Hưng Yên, được giao cho Nguyễn Văn N lái xe
công ty điều khiển để vận chuyển hàng hoá cho ng ty. Nguyễn Văn N giấy
phép lái xe theo quy định.
Sáng ngày 08/02/2020, N lái xe ô biển kiểm soát 89C-148.22 chở hàng
từ công ty TNHH&TM H đến thành phố N, tỉnh Nam Định để giao hàng. Sau
khi giao hàng xong, N lái xe quay về công ty, đến khoảng 11 giờ cùng ngày, N
đi đến nút giao giữa đường nối hai cao tốc Nội - Hải Phòng Cầu Giẽ -
Ninh Bình với đường dẫn lên cầu Hưng Hà, thuộc địa phận thôn 3 T, xã C,
huyện L, tỉnh Nam, là nơi đường bộ giao nhau cùng mức, khu vực đường
biển báo hiệu đi chậm nhưng khi đi qua khu vực này, N không giảm tốc độ để có
thể dừng lại một cách an toàn, dẫn đến xe ô do N điều khiển đâm va vào xe
mô tô, biển kiểm soát 90B2 - 380.83, do ông Trần Bá N điều khiển, phía sau chở
vợ Đào Thị K, đang chuyển hướng từ cầu Hưng đi vphía đường dẫn
lên cầu Thái (đi ngược chiều với xe ô tô) làm ông N, K bị nxuống
đường. Hậu quả: Ông N bị thương tích, được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế
huyện L, đến khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày ông N tử vong; K bị thương
tích; xe ô tô và mô tô đều bị hư hỏng.
Kết quả giám định:
- Ti bn kết luận giám định s 21/TT ngày 24/02/2020 của Trung tâm
Pháp y tnh Hà Nam kết lun thương tích của ông Trần Bá N: “Rách lóc da, dập
cơ, t máu vùng bẹn, bùi hai bên. Khung chậu nhiều máu, gãy phức tp xương
cánh chậu trái xương mu, đứt mạch chậu trong mạch bẹn trái.
Nguyên nhân làm ông N t vong do mất máu cp hu qu ca chn thương nng
vùng khung chậu”.
- Đào Thị K b thương tích nhưng t chối giám định thương tích nên
cơ quan điều tra không xác định được mức độ tn hi sc kho của bà K.
3
- Tại bản kết luận định giá tài sản số 02/KL-ĐGTS ngày 28/02/2020 của
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L, xác định: Miếng ốp
nhựa ba đờ sốc góc bên trái của xe ô biển kiểm soát 89C-148.22 bị hỏng,
trị giá 60.000 (u mươi nghìn) đồng.
- Tại bản kết luận định giá tài sản số 05/KL-ĐGTS ngày 18/3/2020 của
Hội đồng định giá tài sản trong ttụng hình sự huyện Nhân, xác định: Thiệt
hại do hư hỏng của chiếc xe biển kiểm soát 90B2-380.83 1.057.350
(Một triệu không trăm năm mươi bẩy nghìn ba trăm năm mươi) đồng.
Quá trình điều tra: quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm phương tiện, tạm giữ giấy phép lái xe hạng E căn cước
công dân đều mang tên Nguyễn Văn N; thu giữ các mảnh nhựa vỡ màu đỏ, đen
kích thước khác nhau, mảnh to nhất kích thước (0,39 x 0,35)m gắn cụm đèn
chiếu sáng của xe mô biển kiểm soát 90B2-380.83. Bị cáo Nguyễn Văn N đã
thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. quan điều tra đã
trả lại chiếc xe ô biển kiểm soát 89C-148.22 cho Công ty TNHH&TM H
chiếc xe mô tô biển kiểm soát 90B2-380.83 cho gia đình bị hại.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường 180.000.000 (Một trăm tám
mươi triệu) đồng cho đại diện của bị hại, đại diện của bị hại có đơn xin giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu bị cáo, công ty TNHH&TM H phải bồi
thường thêm khoản tiền nào khác. Đại diện của công ty TNHH&TM H không
yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại về tài sản của công ty.
Vật chứng của vụ án: Giấy phép lái xe hạng E căn cước công dân đều
mang tên Nguyễn Văn N; các mảnh nhựa vỡ màu đỏ, đen kích thước khác nhau,
mảnh to nhất kích thước (0,39 x 0,35)mgắn cụm đèn chiếu sáng của xe mô tô
biển kiểm soát 90B2 - 380.83 được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Lý Nhân.
Bn cáo trng s 27/CT-VKSLN ngày 13/5/2020 ca Vin kim sát nhân
dân huyn Lý Nhân truy t Nguyễn Văn N về tội “Vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ
luật Hình sự.
* Ti phiên tòa:
- Đại din Vin kim sát nhân dân huyện Nhân gi nguyên quan điểm
truy t đối vi b cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều
260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị
cáo Nguyễn Văn N từ 18 đến 24 tháng cho hưởng án treo, thời gian thử thách
từ 36 đến 48 tháng; hình phạt bổ sung: đề nghị cấm hành nghề lái xe đối với bị
cáo từ 12 đến 15 tháng; Về trách nhiệm dân sự: Đại diện của người bị hại, bị
đơn dân sự không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không giải quyết. Đồng
thời đề nghị xử lý vật chứng và án phí vụ án.
- B cáo Nguyễn Văn N không tranh luận, bào chữa mà xin Hội đồng
xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
4
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ
quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá
trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không ý kiến hoặc khiếu nại về hành
vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó,
các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, khách quan.
[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với
biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện, khám nghiệm tử
thi; lời khai của người làm chứng; kết luận giám định, kết luận định giá tài sản
và các chứng cứ khác lưu trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, đsở kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 08/02/2020, tại khu vực
nút giao giữa đường nối hai cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và Cầu Giẽ - Ninh Bình
với đường dẫn lên cầu Hưng Hà, thuộc địa phận thôn 3 T, C, huyện L, tỉnh
Nam, Nguyễn Văn N (có giấy phép lái xe theo quy định), điều khiển xe ô
biển kiểm soát 89C-148.22 đi qua nơi đường bộ giao nhau cùng mức, biển
báo hiệu đi chậm nhưng N không giảm tốc độ để thể dừng lại một cách an
toàn, dẫn đến đâm va vào xe tô biển kiểm soát 90B2-380.83 do ông Trần
N điều khiển, phía sau chở vợ là bà Đào Thị K, đang chuyển hướng từ cầu Hưng
Hà về phía cầu Thái Hà. Hậu quả làm ông N bị thương tích, được đưa đi cấp cứu
tại Trung tâm Y tế huyện Lý Nhân, đến khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày ông N
tử vong; K bị thương tích nhưng từ chối giám định; chiếc xe ô và
đều bị hỏng, tổng thiệt hại 1.117.350 (Một triệu một trăm mười bẩy nghìn
ba trăm năm mươi) đồng.
Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn N đã phạm vào tội “Vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhân, tỉnh Nam đã
truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho hội, xâm phạm
đến an toàn công cộng vi phạm Luật giao thông đường bộ, gây thiệt hại đến tính
mạng của người khác, hậu quả là nghiêm trọng. Do đó cần phải tuyên một mức
án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm dăn đe, giáo dục
và phòng ngừa chung.
Xét về lỗi, Nguyễn Văn N khi điều khiển xe đã không giảm tốc độ đến
mức không nguy hiểm khi đi qua khu vực ngã ba đường bộ giao nhau cùng mức
dẫn đến vụ tai nạn nêu trên, đây nguyên nhân chính của vụ án; nguyên nhân
5
thứ hai, khi đi qua nơi đường giao nhau, ông Trần N thiếu quan sát, khi điều
khiển xe mô tô chuyển hướng không đảm bảo an toàn, dẫn đến xe ô tô do bị cáo
điều khiển đã đâm va (vị trí ba đờ sốc góc bên trái) vào xe mô tô (phía tay lái
bên phải) do ông N điều khiển, dẫn đến tai nạn. vậy, xác định bị hại cũng
một phần lỗi trong vụ án.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự nào của vụ án.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra tại phiên toà bcáo đã thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường, khắc phục toàn bộ thiệt hại cho gia
đình bị hại, đại diện của bị hại đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị hại
cũng một phần lỗi, đây các tình tiết giảm nhẹ bcáo được hưởng theo quy
định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyễn n N
nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự, đây lần đầu phạm tội, bị cáo được
hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Quá
trình điều tra tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm
tội, tỏ sự ăn năn hối cải; bị cáo người lao động luôn chấp hành tốt chính
sách pháp luật quy định của địa phương, không biểu hiện vi phạm pháp
luật mới, khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo với
hội cho bị cáo được hưởng án treo, chịu sự giám sát, giáo dục của chính
quyền địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo phòng ngừa chung. Đây
cũng thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội, như
quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp, nhưng vẫn đảm bảo
đúng quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự Nghị quyết số 02/2018/NQ-
HĐTP, ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Tạo
hội cho bị cáo tự rèn luyện, sửa chữa thấy được chính sách nhân đạo,
khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội nhân thân tốt, biết ăn năn
hối cải.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ
sung cấm hành nghề đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ
luật hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại, bị đơn dân sự
không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[6] Về vật chứng: Giấy phép lái xe hạng E căn cước công dân đều
mang tên Nguyễn Văn N giấy tờ hợp pháp của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.
Đối với các mảnh nhựa vỡ màu đỏ, đen kích thước khác nhau, mảnh to nhất kích
thước (0,39 x 0,35)m gắn cụm đèn chiếu sáng của xe biển kiểm soát
90B2-380.83 không có giá trị sử dụng, tịch thu tiêu huỷ.
[7] Về án phí quyền kháng cáo: Bcáo phải chịu án phí hình sự
thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
6
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố bcáo Nguyễn Văn N phạm tội “Vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ”.
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 65 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn N 18 (Mười tám) tháng tù, cho hưởng án
treo, thời gian thử thách 36 (Ba mươi sáu) tháng, tính tngày tuyên án thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn N cho Uỷ ban nhân dân phường L, thành phố H, tỉnh
Hưng Yên giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi trú thì thực hiện
theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa
vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo
phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- nh phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Cấm
hành nghề lái xe ô đối với Nguyễn Văn N thời hạn 01 (Một) năm, kể từ ngày
bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Trả lại cho bị o Nguyễn Văn N: 01 Giấy phép lái xe hạng E căn
cước công dân đều mang tên Nguyễn Văn N. Tiếp tục quản lý giấy phép lái xe đã
tuyên trả cho bị o đến khi bị cáo chấp hành xong hình phạt bổ sung.
- Tịch thu tiêu huỷ c mảnh nhựa vỡ màu đỏ, đen kích thước khác nhau,
mảnh to nhất kích thước (0,39 x 0,35)mgắn cụm đèn chiếu sáng của xe mô tô
biển kiểm soát 90B2-380.83.
(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như biên bản bàn giao vật chứng giữa cơ
quan Cảnh sát điều tra với Chi cục Thi nh án dân sự huyện Nhân ngày
14/5/2020).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1
Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải
chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người đại diện hợp pháp của người bị hại, bị
đơn dân sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận
bản án hoặc bản án được niêm yết.
7
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,
7 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hà Nam;
- VKSND tỉnh Hà Nam;
- Sở Tư pháp tỉnh Hà Nam;
- VKSND huyện Lý Nhân;
- Công an huyện Lý Nhân;
- Chi cục THADS huyện Lý Nhân;
- Bị cáo; đại diện của bị hại;
- Bị đơn dân sự;
- Lưu: Hồ sơ + Văn phòng.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Đỗ Quốc Huy
Tải về
Bản án số 22/2020/HS-ST Bản án số 22/2020/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất