Bản án số 21/2025/DS-ST ngày 21/03/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 17 - Lâm Đồng, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 21/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 21/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 21/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 21/2025/DS-ST ngày 21/03/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 17 - Lâm Đồng, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 17 - Lâm Đồng, tỉnh Lâm Đồng |
Số hiệu: | 21/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | chấp nhận |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐỨC LINH
TỈNH BÌNH THUẬN
Bản án số: 21/2025/DS-ST
Ngày: 21-03-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Mai Thuận.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Mai Thương và ông Lưu Trọng Kim.
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Ông Bùi Chí Bảo – Thư ký Toà án
nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận tham gia
phiên toà: Bà Lê Thị Thanh Tốt – Kiểm sát viên.
Trong các ngày từ ngày 17 đến ngày 21 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Toà án
nhân dân huyện Đức Linh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
85/2024/TLST-DS ngày 11 tháng 3 năm 2024, về việc “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
10/2025/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 01 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa
số 25/2025/QĐXST-DS ngày 20 tháng 02 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện
Đức Linh, giữa các bên đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Anh V, sinh năm 1989 và Huỳnh Thị Bích T,
sinh năm 1988.
Cùng nơi cư trú: Đường Âu Cơ, Khu phố 1, thị trấn Vx, Đức Linh, Bình
Thuận.
- Bị đơn: Bà Huỳnh Thị Ngọc N, sinh năm 1972 và ông Nguyễn Trung K,
sinh năm 1971; nơi cư trú: Số 51, đường Chu Văn An, khu phố 3, thị trấn Dt, huyện
Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
1/ Ông Nguyễn X Lý, sinh năm 1976; Nơi cư trú: Số 69/9A, đường số 48,
phường Hiệp Bình Chánh, thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
2/ Ông Nguyễn Phương Quang, sinh năm 1996; Nơi cư trú: Số 150, đường
Cách Mạng Tháng Tám, khu phố 6, thị trấn Vx, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
(Theo Giấy ủy quyền lập ngày 19/3/2024, tại Văn phòng Công chứng
2
Nguyễn Thị Thùy T)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Hòa. Chức vụ: Chi cục trưởng
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Quang Huy, sinh năm 1982.
Chức vụ: Chấp hành viên.
Đơn vị công tác: Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh.
2/ Ông Trần Ct, sinh năm 1950 và bà Võ Thị X, sinh năm 1962; cùng nơi cư
trú: Số 150, đường 3/2, khu phố 5, thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
3/ Bà Tô Thị T, sinh năm 1978 và ông Hồ Phi V, sinh năm 1978; cùng nơi cư
trú: Số 144, đường Cách mạng tháng 8, tổ 1, khu phố 6, thị trấn Vx, huyện Đức
Linh, tỉnh Bình Thuận.
Tại phiên tòa, có mặt nguyên đơn, có mặt người đại diện theo ủy quyền của
bị đơn (ông Nguyễn Phương Quang); có mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Trần Ct; vắng mặt ông Nguyễn X Lý (người đại diện theo ủy quyền của bị đơn),
vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Thị X, Tô Thị T, Hồ Phi V và
Đại diện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Vào ngày 31/01/2023, vợ chồng anh V và chị T có thỏa thuận nhận sang
nhượng diện tích 101m
2
thuộc thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75 giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CU335040 cấp ngày 31/3/2020 từ ông Nguyễn Trung K, bà
Huỳnh Thị Ngọc N với giá 990.000.000 đồng (Chín trăm, chín mươi triệu đồng).
Hai bên viết giấy tay mua bán, anh V và chị T đã giao đủ tiền cho ông K, bà N rồi
nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhận đất quản lý sử dụng từ đó cho
đến nay. Do ba của anh V và chị T đột ngột qua đời, gia đình gặp biến cố lớn nên
đến ngày 23/01/2024 vợ chồng anh V và chị T và ông K, bà N mới tiến hành công
chứng, chứng thực làm thủ tục sang nhượng theo quy định của pháp luật. Khi việc
sang nhượng đang thực hiện, hồ sơ sang nhượng đã công chứng, nộp hồ sơ vào bộ
phận 1 cửa chờ sang nhượng thì ngày 26/01/2024 Tòa án nhân dân huyện Đức Linh
ra Quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm thời số 02/2024/QĐ-BPKCTT
ngày 26/01/2024 theo yêu cầu của ông Trần Ct và bà Võ Thị X đang tranh chấp hợp
đồng vay tài sản với ông K, bà N theo thông báo thụ lý số 39/2024/TLST-DS ngày
23/01/2024. Theo đó Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Đức Linh đã có công văn
số 364/KHL-CNVPĐKĐĐĐL ngày 26/01/2024 thông báo cho anh V và chị T việc
bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Anh V và chị T nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của anh V và chị T bị
xâm phạm, bởi vì thỏa thuận sang nhượng đất được xác lập từ ngày 31/01/2023,
anh V và chị T đã giao đủ tiền cho bên chuyển nhượng và nhận đất quản lý sử dụng
ổn định từ đó đến nay.
3
Nay anh V và chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đức Linh công
nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng anh
V và chị T và vợ chồng ông Nguyễn Trung K, bà Huỳnh Thị Ngọc N được xác lập
vào ngày 31/01/2023, công nhận cho anh V và chị T được quyền sở hữu diện tích
101m
2
thuộc thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CU335040 cấp ngày 31/3/2020.
Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, ông
Nguyễn X Lý trình bày:
Ngày 31/01/2023, vợ chồng bị đơn bà Huỳnh Thị Ngọc N và ông Nguyễn
Trung K có thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng nguyên
đơn bà Huỳnh Thị Bích T và ông Nguyễn Anh V, hai bên thống nhất viết giấy tay
mua bán; đối tượng chuyển nhượng là thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, diện tích
101m
2
, địa chỉ thửa đất khu phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận,
được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (Giấy chứng nhận) số
CU 335040 ngày 31/3/2020; giá chuyển nhượng là 990.000.000 đồng (Chín trăm
chín mươi triệu đồng). Ny sau khi ký kết Giấy mua bán đất, vợ chồng bị đơn đã
nhận đầy đủ toàn bộ số tiền 990.000.000 đồng (Chín trăm chín mươi triệu đồng),
đồng thời đã bàn giao bản chính Giấy chứng nhận số CU 335040 và giao đất cho vợ
chồng nguyên đơn trực tiếp quản lý, sử dụng cho đến nay. Đôi bên cũng thống nhất
phía nguyên đơn sẽ tự đi thực hiện các thủ tục sang nhượng và tự thực hiện các
nghĩa vụ tài chính với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, phía bị đơn sẽ hỗ trợ
ký tá các hồ sơ có liên quan theo yêu cầu của nguyên đơn.
Tuy nhiên, ngày 26/01/2024, Tòa án nhân dân huyện Đức Linh ra quyết định
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm thời số 02/2024/QĐ-BPKCTT, theo yêu cầu của
ông Trần Ct và bà Võ Thị X, vì cho rằng vợ chồng bị đơn chuyển nhượng thửa đất
nêu trên nhằm tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
Kính thưa Quý Tòa, mặc dù vợ chồng bị đơn có nợ tiền vợ chồng ông Tài, bà
X từ trước ngày 31/01/2023. Nhưng tại thời điểm vợ chồng bị đơn lập giấy mua bán
đất với nguyên đơn ngày 31/01/2023, vợ chồng bị đơn còn có các tài sản là bất
động sản khác như:
1/ Thửa đất số 158A, tờ bản đồ số 01, diện tích 220m
2
, địa chỉ thừa đất: Thôn
1, xã Nam Chính, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, Giấy chứng nhận số BQ
208636, chỉnh lý cập nhật tên ông Nguyễn Trung K và bà Huỳnh Thị Ngọc N ngày
18/4/2022:
2/ Thửa đất số 111, tờ bản đồ số 01, diện tích 2.000m
2
, địa chỉ thửa đất: Khu
vực Hố Tre Hố Mây, xã Nam Chính, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, Giấy
chứng nhận số AB 269138, cấp ngày 28/6/2005 cho ông Nguyễn Trung K và bà
Huỳnh Thị Ngọc N;
3/ Thửa đất số 119, tờ bản đồ số 75, diện tích 78,9m
2
, địa chỉ thửa đất: Khu
phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, Giấy chứng nhận số CU
335039, cấp ngày 31/3/2020 cho ông Nguyễn Trung K và bà Huỳnh Thị Ngọc N,
4
4/ Thửa đất số 168, tờ bản đồ số 33, diện tích 2.225m
2
, địa chỉ thửa đất: Đồng
Bàu Sình thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, Giấy chứng nhận số CV
933704, cấp ngày 17/9/2020 cho bà Huỳnh Thị Ngọc N.
5/................
Do đó, việc nói bị đơn chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nguyên đơn
theo Giấy mua bán đất ngày 31/01/2023 nhằm mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh
nghĩa vụ trả nợ là không đúng với thực tế.
Vậy nên, đại diện cho bị đơn, ông Lý yêu cầu tòa án nhân dân huyện Đức
Linh công nhận hiệu lực của Giấy mua bán đất lập ngày 31/01/2023, giữa vợ chồng
bà Huỳnh Thị Ngọc N, ông Nguyễn Trung K và vợ chồng bà Huỳnh Thị Bích T,
ông Nguyễn Anh V, đối với thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, diện tích 101m
2
, Giấy
chứng nhận số CU 335040 cấp ngày 31/3/2020.
Trường hợp Tòa án không công nhận thì bị đơn đồng ý trả lại số tiền
990.000.000 đồng (Chín trăm chín mươi triệu đồng) cho nguyên đơn và đồng thời
đề nghị nguyên đơn trả lại đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản chính)
cho bị đơn.
Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, ông
Nguyễn Phương Quang trình bày:
Ngày 31/01/2023, vợ chồng bị đơn bà Huỳnh Thị Ngọc N và ông Nguyễn
Trung K có thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng nguyên
đơn bà Huỳnh Thị Bích T và ông Nguyễn Anh V, hai bên thống nhất viết giấy tay
mua bán; đối tượng chuyển nhượng là thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, diện tích
101m
2
, địa chỉ thửa đất: khu phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận,
được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (Giấy chứng nhận) số
CU 335040 ngày 31/3/2020; giá chuyển nhượng là 990.000.000 đồng (Chín trăm
chín mươi triệu đồng).
Ny sau khi ký kết Giấy mua bán đất, vợ chồng bị đơn đã nhận đầy đủ toàn bộ
số tiền 990.000.000 đồng (Chín trăm chín mươi triệu đồng), đồng thời đã bàn giao
bản chính Giấy chứng nhận số CU 335040 và bàn giao đất cho vợ chồng nguyên
đơn trực tiếp quản lý, sử dụng cho đến nay. Tại thời điểm bị đơn bàn giao đất, toàn
bộ thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75 là đất trống, không có bất cứ một công trình xây
dựng nào trên đất. Do đó, toàn bộ công trình xây dựng trên đất như Quý Tòa đã
thấy hiện nay, đều do phía nguyên đơn đầu tư xây dựng. Việc nguyên đơn xây dựng
có được sự đồng ý hoặc xác nhận của chính quyền địa phương hay không thì bị đơn
không biết, vì đất đã bán nên bị đơn không quan tâm đến thửa đất đó nữa.
Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Trần
Ct và bà Võ Thị X trình bày:
Tại quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 13/2024/QĐST-
DS ngày 02/02/2024 của Toà án nhân dân huyện Đức Linh thì bà Huỳnh Thị Ngọc
N và ông Nguyễn Trung K phải trả cho ông Tài và vợ ông Tài là bà Võ Thị X số
tiền 2.050.000.000 đồng. Sau khi có quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự của Tòa án, ông Tài đã làm đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 27/02/2024,
5
Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Linh đã ban hành Quyết định về việc cưỡng
chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 29/QĐ-CCTHADS về
việc kê biên các quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bà Huỳnh Thị
Ngọc N và ông Nguyễn Trung K. Theo như quyết định cưỡng chế thì thửa đất số
120, tờ bản đồ số 75, diện tích 101m
2
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 335040 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận cấp ngày 31/3/2020 đứng tên chủ sử dụng
là bà Huỳnh Thị Ngọc N và ông Nguyễn Trung K đã bị kê biên để thi hành án. Tuy
nhiên, hiện nay Tòa án nhân dân huyện Đức Linh đang thụ lý vụ án số 85/2024
TLST-DS ngày 11/3/2024 về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa nguyên đơn ông Nguyễn Anh V, bà Huỳnh Thị Bích T với bị đơn bà
Huỳnh Thị Ngọc N và ông Nguyễn Trung K. Thấy rằng, việc các bên khởi kiện là
nhằm tẩu tán tài sản phải thi hành án của bà N và ông K; các tài sản còn lại của bà
N và ông K không đủ để trả các khoản nợ phải thi hành án và thửa đất trên đã bị kê
biên thi hành án nên việc Toà án giải quyết vụ án là ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của ông Tài nên ông Tài đề nghị Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng bà Huỳnh Thị Ngọc N và ông
Nguyễn Trung K với bên nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Anh V, bà Huỳnh Thị
Bích T đối với thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, diện tích 101m
2
là vô hiệu.
Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bà Tô Thị
T và ông Hồ Phi V trình bày:
1. Về Hợp đồng mua bán đất viết bằng giấy tay giữa ông V và bà T (gọi tắt là
ông V) với ông K và bà N (gọi tắt là bà N), được ký vào ngày 31/01/2023. Hợp
đồng này không được chứng thực và cũng không có bên làm chứng hợp pháp là
không có cơ sở pháp lý để công nhận. Hơn nữa, ông V và bà N đều có lợi khi hợp
đồng mua bán đất này được công nhận, nên việc tạo ra hợp đồng mua bán đất
không có chứng thực pháp lý trong quá khứ là điều dễ dàng. Trên thực tế, bà N đã
đưa Giấy chứng nhận của thửa đất này và thừa gần bên cho bà Tô Thị T giữ với ý
muốn để cấn trừ khoản tiền mà bà N đã mượn bà T hoặc nhờ bà T bán hộ để trả nợ
cho bà T. Đối với 02 giấy chứng nhận này bà T đã giữ trong thời gian từ tháng
09/2023 đến tháng 12/2023, vào tháng 9/2023 bà T có gửi Giấy chứng nhận QSDĐ
số CU 335040 cho ông Phạm Ông Bi (ở Đức Hạnh) và ông Trần Nguyên Khoa (ở
Vx) để nhờ xem đất hộ. Đến ngày 29/11/2023 bà N có điện thoại nhờ bà T chụp
hình 02 Giấy chứng nhận trên để bán cho người khác (bà T đã in hình ảnh zalo
đoạn thông tin trao đổi giữa bà T và bà N gửi đến Tòa), sau đó bà N gặp bà T lấy
Giấy chứng nhận về. Tuy nhiên, tại buổi hòa giải lần 1 giữa chúng bà T, ông Tài
với vợ ông V, thì vợ ông V đã trình bày là đã giữ Giấy chứng nhận QSDĐ số CU
335040 trong năm 2023 là điều bất hợp lý.
2. Hợp đồng thuê khoán công trình do ông V cung cấp Hợp đồng thuê khoán
công trình được ký vào năm 2022 (không ghi ngày, tháng) giữa ông V và ông
Trương Thế Hoàng, để làm công trình nhà lồng, tráng nền, tường rào và cửa cổng
trên đất của bà N. Hợp đồng mua bán đất ký ngày 31/01/2023. Như vậy ông V đã
làm các công trình gắn liền trên đất trước khi tiến hành mua đất từ bà N là điều bất
hợp lý. Về thực chất, công trình này được làm vào năm 2022, do bà N thuê ông Đỗ
6
Trần Trọng Khôi làm vòm sắt và cổng, thuê ông Bùi Thông Việt tráng nền. Cả hai
người đã làm giấy xác nhận (có biên nhận kèm theo) do ông Trần Ct (người có liên
quan) cung cấp đến Tòa án. Sự bất hợp lý về thời gian và không đúng người thực
hiện công trình như đã nêu trên, cho thấy ông V không thực hiện công trình trên đất
bà N nhưng đã tạo ra Hợp đồng thuê khoán công trình không có thật. Ông V đã
ngụy tạo chứng cứ về hợp đồng thuê khoán công trình nhà lồng, tráng nền, tường
rào và cửa cổng. Việc này góp phần đánh giá Hợp đồng mua bán đất giữa bà N và
ông V viết bằng giấy tay là không có thật. Vấn đề này bà N không nêu ý kiến, thời
gian qua bà N đã thiếu phối hợp với các chủ nợ để thực hiện trách nhiệm còn lại,
cho thấy bà N có ý muốn che dấu sự thật để thực hiện hành vi tẩu tán tài sản (như
bản thân bà T cũng bị bà N đưa vào tình huống tẩu tán tài sản (Tòa đã xử lý) mà
không hay biết).
3. Kiến nghị: Từ những vấn đề nêu trên, bà T đề nghị Tòa án nhân dân huyện
Đức Linh hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông V và bà N
vì lý do sau: Hợp đồng mua bán đất không có cơ sở pháp lý chứng minh (vì việc tạo
một hồ sơ không pháp lý giữa những người có cùng lợi ích, cùng động cơ, mục đích
là điều dễ dàng); bà T đã giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất này
trong khoảng thời gian từ 09/2023 đến 12/2023. Ông V cung cấp Hợp đồng thuê
khoán công trình để chứng minh bản thân đã sở hữu đất, nhưng đây là hợp đồng
không có thật như đã dẫn chứng nêu trên. Điều này cho thấy Hợp đồng mua bán đất
càng thiếu cơ sở để chứng minh là trung thực.
Vì vậy bà T kính đề nghị quý Tòa căn cứ quy định pháp luật thực hiện xét xử
vụ việc công bằng, đảm bảo lợi ích chính đáng đối với những người có liên quan.
Quá trình giải quyết vụ án, Đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan (Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh) trình bày:
Chi cục Thi hành án đang tổ chức thi hành các Quyết định số
13/2024/QĐST-DS ngày 02/02/2024 và số 01/2024/QĐCNHGT-DS ngày
21/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh. Các quyết định thi hành án số
771/QĐ-CCTHADS ngày 02/02/2024, số 804/QĐ-CCTHADS ngày 20/02/2024 và
số 825/QĐ-CCTHADS ngày 21/02/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Đức Linh theo đó bà Huỳnh Thị Ngọc N, sinh năm 1972 và ông Nguyễn Trung K,
sinh năm 1971, cùng nơi cư trú: Số 51, đường Chu Văn An, khu phố 3, thị trấn Dt,
huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận có nghĩa vụ phải nộp 36.500.000đồng tiền án phí,
trả nợ cho cá nhân tổng số tiền là 5.120.000.000đồng và khoản lãi suất phát sinh do
chậm thi hành án. Chấp hành viên đã thực hiện xác minh điều kiện thi hành án của
bà N, ông K và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Đức Linh cung cấp
thông tin các tài sản là 07 (bảy) quyền sử dụng đất hiện đang đứng tên bà N và ông
K cụ thể như sau:
1. Thửa đất số 158A, tờ bản đồ số 01, diện tích 220m
2
, (đất ở nông thôn) địa
chỉ thừa đất: Thôn 1, xã Nam Chính, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số
BO 208636, do Ủy ban nhân dân huyện Đức Linh cấp ngày 08/11/2013, cấp cho
ông Trần Văn Cường, đã được chỉnh lý biến động chuyển nhượng cho ông Nguyễn
Trung K và bà Huỳnh Thị Ngọc N vào ngày 18/4/2022;
7
2. Thửa đất số 111, tờ bản đồ số 01, diện tích 2.000m
2
(đất trồng cây công
nghiệp lâu năm) (nay được đo đạc địa chính thành thửa 43, tờ bản đồ số 96, diện
tích 2.080,6m
2
) địa chỉ thửa đất: Khu vực Hố Tre Hố Mây, xã Nam Chính, huyện
Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số AB
269138, do Ủy ban nhân dân huyện Đức Linh cấp ngày 28/6/2005, cấp cho ông
Nguyễn Trung K và bà Huỳnh Thị Ngọc N;
3. Thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, diện tích 101,0m
2
(đất ở đô thị 40,0m
2
đất trồng cây lâu năm 61,0m
2
), địa chỉ thửa đất: Khu phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức
Linh, tỉnh Bình Thuận, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 335040, do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Bình Thuận cấp ngày 31/3/2020, cấp cho ông Nguyễn Trung K và bà Huỳnh
Thị Ngọc N;
4. Thửa đất số 119, tờ bản đồ số 75, diện tích 78,9m
2
(đất ở đô thị 40,0m
2
đất
trồng cây lâu năm 38,9m
2
), địa chỉ thửa đất: Khu phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức
Linh, tỉnh Bình Thuận, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 335039, do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Bình Thuận cấp ngày 31/3/2020, cấp cho ông Nguyễn Trung K và bà Huỳnh
Thị Ngọc N;
5. Thửa đất số 168, tờ bản đồ số 33, diện tích 2.225,0m
2
(đất trồng lúa nước
còn lại), địa chỉ thửa đất: Đồng Bàu Sình thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình
Thuận, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CV 933704, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình
Thuận cấp ngày 17/9/2020, cấp cho bà Huỳnh Thị Ngọc N;
6. Thửa đất số 84, tờ bản đồ số 54, diện tích 660,8m
2
(đất trồng cây lâu năm),
địa chỉ thửa đất: Khu Bích Liên, xã Tân Hà, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số DK 753737, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận cấp ngày
17/02/2023, cấp cho bà Hoàng Thị Nụ đã được chỉnh lý biến động chuyển nhượng
cho bà Huỳnh Thị Ngọc N ngày 23/5/2023;
7. Thửa đất số 10, tờ bản đồ số 29, diện tích 339,2m
2
(đất trồng cây lâu năm),
địa chỉ thửa đất: Khu vực đất trồng cây lâu năm xã Trà Tân, huyện Đức Linh, tỉnh
Bình Thuận, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số DK 753737, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình
Thuận cấp ngày 17/02/2023, cấp cho bà Hoàng Thị Nụ đã được chỉnh lý biến động
chuyển nhượng cho bà Huỳnh Thị Ngọc N ngày 23/5/2023.
Tại thời điểm xác minh các thửa đất trên không có hồ sơ đăng ký biến động
về quyền sử dụng đất (trong đó có thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75). Chấp hành
viên đã tiến hành xác minh thực địa các quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất, ước tính sơ bộ giá trị tài sản không đủ thực hiện nghĩa vụ phải thi hành án.
Hết thời hạn tự nguyện thi hành án bà N, ông K chưa thực hiện việc thi hành
án. Căn cứ các quy định của pháp luật và xét Đơn đề nghị kê biên ngày 20/02/2024
của ông Trần Ct và bà Võ Thị X Chấp hành viên đã ban hành Quyết định số
29/QĐ-CCTHADS ngày 27/02/2024 về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất đối với các tài sản là 07 (bảy) quyền sử dụng đất nêu trên.
8
Quyết định trên đã được thông báo hợp lệ cho các đương sự và cơ quan, tổ chức có
liên quan.
Ngày 11/3/2024 bà Huỳnh Thị Bích T, địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn Vx, huyện
Đức Linh cung cấp cho Chi cục Thi hành án Thông báo về việc thụ lý vụ án số
85/TB-TLVA ngày 11/3/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh về việc “Tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với thửa đất số 120, tờ bản
đồ số 75, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CU 335040, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình
Thuận cấp ngày 31/5/2020. Ngày 12/3/2024 Chấp hành viên có Công văn số
259/CCTHADS về việc thông báo tài sản đã ra quyết định kê biên hiện đang có
tranh chấp tại Tòa án.
Ý kiến của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh đối với vụ án dân sự
như sau: Đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đức Linh xem xét, không công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75,
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số CU 335040, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận cấp ngày
31/5/2020 giữa bà Huỳnh Thị Ngọc N, ông Nguyễn Trung K với ông Nguyễn Anh
V, bà Huỳnh Thị Bích T. Đề nghị Tòa án xác định rõ thửa đất số 120, tờ bản đồ số
75, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CU 335040, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận cấp
ngày 31/5/2020 và toàn bộ tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của ai để
Chi cục Thi hành án có cơ sở thực hiện việc thi hành án.
Tại phiên toà:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu công nhận
hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng nguyên
đơn và vợ chồng ông Nguyễn Trung K, bà Huỳnh Thị Ngọc N được xác lập vào
ngày 31/01/2023; công nhận một phần Hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng
đất lập ngày 23/01/2024 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Thùy T, công nhận
cho nguyên đơn được quyền sở hữu diện tích 101m
2
thuộc thửa đất số 120, tờ bản
đồ số 75 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU335040 cấp ngày 31/3/2020;
đồng ý tuyên vô hiệu đối với Điều 2 của Hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng
đất lập ngày 23/01/2024 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Thùy T; đồng ý
chịu các nghĩa vụ tài chính đối với số tiền thực tế giao dịch chuyển nhượng là
990.000.000đồng.
Đại diện hợp pháp của bị đơn đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Trường hợp các giao dịch bị tuyên vô hiệu thì bị đơn đồng ý trả lại tiền cho nguyên
đơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Trần Ct không đồng ý với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị tuyên bố giấy mua bán đất đề ngày
31/01/2023 giữa vợ chồng bà N ông K với ông V, bà T là vô hiệu do bà N ông K có
dấu hiệu tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Tô Thị T, ông Hồ Phi V, bà Võ Thị
X và Đại diện cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh vắng mặt.
9
Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh tại phiên tòa:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng
xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố
tụng được pháp luật quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn, bị
đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn cũng như người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Trần Ct đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng được quy định tại
các Điều 70, 71, 72, 73, 76 của Bộ luật tố tụng dân sự. Người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan bà Tô Thị T, ông Hồ Phi V, bà Võ Thị X và Đại diện cho Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Đức Linh chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng được
quy định tại các Điều 70, 73 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu xem xét các tài liệu chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các bên đương sự tại phiên tòa hôm
nay, xét thấy việc nguyên đơn khởi kiện là hoàn toàn có cơ sở. Đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: Công nhận hiệu lực
của giấy mua bán đất lập ngày 31/01/2023 giữa ông Nguyễn Trung K, bà Huỳnh
Thị Ngọc N với bà Huỳnh Thị Bích T và ông Nguyễn Anh V.
Về án phí: Buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
(có bài phát biểu kèm theo)
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm
tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất với bị đơn; quyền sử dụng đất là đối tượng có liên quan đến tranh chấp và bị
đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình
Thuận.
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a và điểm c khoản 1
Điều 39; điểm g khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 500
của Bộ luật dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án tranh chấp hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.
[2] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Tô Thị T,
ông Hồ Phi V, bà Võ Thị X, ông Nguyễn X Lý và Đại diện cho Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Đức Linh đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt
không có lý do chính đáng; do đó, căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Tô Thị T, ông Hồ Phi V, bà Võ Thị X,
ông Nguyễn X Lý và Đại diện cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh.
Về ý kiến của bị đơn liên quan đến việc tuyên bố vô hiệu Điều 2 của Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 23/01/2024, tại Văn phòng Công
10
chứng Nguyễn Thị Thùy T theo số công chứng 359, quyển số 01/2024/TP/CC-
SCC/HĐGD, đối với là thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, diện tích 101m
2
đất, tọa
lạc tại khu phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU
335040, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận cấp ngày 31/5/2020, cấp
cho bà Huỳnh Thị Ngọc N, ông Nguyễn Trung K là không thuộc phạm vi khởi kiện
ban đầu của nguyên đơn, cụ thể trong đơn khởi kiện ban đầu nguyên đơn yêu cầu
như sau: “Anh Nguyễn Anh V và chị Huỳnh Thị Bích T yêu cầu công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thể hiện qua giấy mua bán đất) lập ngày
31/01/2023 đối với thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, giấy chứng nhận QSD đất số
CU 335040, diện tích 101,0m
2
đất tọa lạc tại khu phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức
Linh, tỉnh Bình Thuận giữa bà Huỳnh Thị Ngọc N, ông Nguyễn Trung K với anh
Nguyễn Anh V, chị Huỳnh Thị Bích T là giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật”.
Quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự không có yêu cầu bổ sung, không có
yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập liên quan đến Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất lập ngày 23/01/2024, tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Thị Thùy T
theo số công chứng 359, quyển số 01/2024/TP/CC- SCC/HĐGD như nêu trên; do
đó, Hội đồng xét xử không xem xét quyết định trong vụ án này.
Trong trường hợp này, bên nhận chuyển nhượng và bên chuyển nhượng có
thể tự lập biên bản thỏa thuận để chấm dứt hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất lập ngày 23/01/2024, tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Thị
Thùy T theo số công chứng 359, quyển số 01/2024/TP/CC- SCC/HĐGD nêu trên.
Nếu các bên trong giao dịch có đề nghị thì Hội đồng xét xử sẽ ghi nhận ý kiến tự
nguyện của các bên đương sự trong bản án này.
[3] Về chứng cứ: Tại phiên tòa, các bên đương sự không cung cấp chứng cứ
mới; do đó Hội đồng xét xử căn cứ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để
xét xử vụ án.
[4] Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp có
trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nội dung vụ án như
sau:
[4.1] Về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp:
Căn cứ vào bản sao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số CU 335040, do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Bình Thuận cấp ngày 31/5/2020, cấp cho bà Huỳnh Thị Ngọc N và ông
Nguyễn Trung K thì có căn cứ khẳng định quyền sử dụng đất là đối tượng liên quan
đến hợp đồng chuyển chượng có tranh chấp trong vụ án này là thửa đất số 120, tờ
bản đồ số 75, diện tích 101m
2
đất, tọa lạc tại khu phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức
Linh, tỉnh Bình Thuận.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ lập ngày 25/4/2024 thì trên thửa đất
120 nêu trên có các tài sản sau: cổng rào bằng sắt, 01 cái giếng khoan, nền láng xi
măng, mái vòm sắt hết thửa đất.
11
Theo biên bản định giá tài sản lập ngày 24/7/2024 thì quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất đang tranh chấp, có giá trị như sau:
+ Thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, diện tích 101m
2
đất, tọa lạc tại khu phố 6,
thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, trị giá: 540.000.000đồng.
+ Toàn bộ tài sản trên đất trị giá: 70.882.000đồng.
[4.2] Về tính pháp lý của giao dịch dân sự:
Về hình thức: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn
và đại diện hợp pháp của bị đơn đều thừa nhận vào ngày 31/01/2023 bà Huỳnh Thị
Ngọc N và ông Nguyễn Trung K có ký giấy mua bán đất với bà Huỳnh Thị Bích T
và ông Nguyễn Anh V; ngày 23/01/2024, tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Thị
Thùy T, giữa nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện thủ tục công chứng hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 101m
2
đất, thửa đất số 120, tờ
bản đồ số 75; tọa lạc tại: Khu phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận,
được chứng thực tại văn phòng Công chứng Nguyễn Thị Thùy T ngày 23/01/2024,
Số công chứng 359, quyển số 01/2024/TP/CC- SCC/HĐGD, đây là sự kiện pháp lý
đã được các đương sự thừa nhận nên thuộc trường hợp các tình tiết không phải
chứng minh được quy định Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Mặc dù tại thời điểm giao dịch ngày 31/01/2023, giữa bà Huỳnh Thị Ngọc N
và ông Nguyễn Trung K mới ký giấy mua bán đất với bà Huỳnh Thị Bích T và ông
Nguyễn Anh V đối với diện tích 101m
2
đất, thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75; tọa lạc
tại: Khu phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, các bên chưa thực
hiện thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định, thế nhưng các bên đã thực hiện
xong toàn bộ giao dịch (bên bà T ông V giao đủ số tiền 990.000.000đồng cho bên
chuyển nhượng và bên bà N ông K đã bàn giao quyền sử dụng đất cũng như giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T, ông V quản lý sử dụng) và đến này
23/01/2024 các bên đã hoàn tất thủ tục công chứng thủ tục chuyển nhượng đối với
thửa đất số 120 nêu trên tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Thị Thùy T; như vậy,
giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà N ông K với bà T ông V đối
với thửa đất số 120 nêu trên đã đảm bảo về mặt hình thức của giao dịch dân sự
được quy định tại Điều 119, 129, 502 của Bộ luật dân sự năm 2015.
[4.2] Về nội dung của giao dịch dân sự:
[4.2.1] Xét nội dung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
23/01/2024 giữa bà N ông K với bà T ông V đối với thửa đất số 120.
Tại Điều 2 của Hợp đồng, các bên có thỏa thuận:
“1. Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu tại Điều 1 của Hợp đồng này
là: 50.000.000 đồng (bằng chữ: Năm mươi triệu đồng Việt Nam)”
Theo kết quả định giá được nêu tại mục [4.1] thì Thửa đất số 120, tờ bản đồ
số 75, diện tích 101m
2
đất, tọa lạc tại khu phố 6, thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh
Bình Thuận, trị giá: 540.000.000đồng.
Tuy nhiên, theo giấy mua bán đất lập ngày 31/01/2023 thì thửa đất có giá trị
là 990.000.000đồng. Như vậy, việc các bên thỏa thuận giá theo Điều 2 của hợp
12
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 23/01/2024 là có dấu hiệu gây
thất thoát về thuế đối với Nhà nước đã được Bộ Tài chính chỉ đạo tại văn bản số
14257/BTC-VP ngày 15/12/2021. Mục đích và nội dung Điều 2 của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 23/01/2024 giữa bà N ông K với bà T
ông V vi phạm điều cấm của luật được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 117 của
Bộ luật dân sự năm 2015; do đó, tại phiên tòa nguyên đơn và người đại theo ủy
quyền của bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến tự nguyện của các bên
đương sự về việc tuyên bố vô hiệu một phần (vô hiệu điều 2) của hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 23/01/2024 giữa bà N ông K với bà T ông V là
phù hợp với quy đinh tại Điều 122, 123, 124, 130 của Bộ luật dân sự năm 2015, nên
Hội đồng xét xử sẽ ghi nhận.
[4.2.2] Xét nội dung của giấy mua bán đất lập ngày 31/01/2023
Nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận thực tế hai bên có ký giấy mua bán đất
lập ngày 31/01/2023 đối với thửa đất số 120 nêu trên, giá thỏa thuận là
990.000.000đồng; tại thời điểm xác lập giấy mua bán thì hai bên đều tự nguyện và
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; thửa đất số 120 không có tranh chấp, không bị
kê biên để thi hành án, nên đề nghị công nhận.
Ông Trần Ct cho rằng nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận mua bán thửa đất 120
là nhằm mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, nên yêu cầu tuyên
bố vô hiệu.
Bà Tô Thị T cho rằng hợp đồng mua bán đất giữa bà N và ông V viết bằng
giấy tay là không có thật, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đức Linh hủy bỏ hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông V và bà N.
Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Linh đề nghị Tòa án nhân dân huyện
Đức Linh xem xét, không công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối với thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 335040, do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận cấp ngày 31/5/2020 giữa bà Huỳnh Thị
Ngọc N, ông Nguyễn Trung K với ông Nguyễn Anh V, bà Huỳnh Thị Bích T. Đề
nghị Tòa án xác định rõ thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 335040, do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận cấp ngày 31/5/2020 và toàn bộ tài
sản gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của ai để Chi cục Thi hành án có cơ sở
thực hiện việc thi hành án.
Nhận thấy, theo tài liệu do Tòa án thu thập được trong hồ sơ vụ án dân sự thụ
lý số 39 ngày 23/01/2024 và hồ sơ vụ việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án thụ lý số
01/2024/TLCNHGT–DS, ngày 05/02/2024, thể hiện giao dịch vay mượn tiền giữa
bà N, ông K với ông Tài, bà X, ông V, bà T phát sinh trong khoản thời gian từ
tháng 12/2023 đến tháng 01/2024; đến ngày 02/02/2024 Tòa án nhân dân huyện
Đức Linh ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số
13/2024/QĐST-DS và ngày 21/02/2024 Tòa án nhân dân huyện Đức Linh ban hành
Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án số 01; các ngày 02/02/2024,
ngày 20/02/2024, 21/02/2024, Chi cục THADS huyện Đức Linh ban hành quyết
13
định thi hành án số 771/QĐ-CCTHADS, số 804/QĐ-CCTHADS và số 825/QĐ-
CCTHADS đối với người phải thi hành án là bà Huỳnh Thị Ngọc N và ông Nguyễn
Trung K; ngày 27/02/2024 Chi cục THADS huyện Đức Linh ban hành Quyết định
số 29/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất đối với các tài sản là 07 (bảy) quyền sử dụng đất của bà N và ông K
(trong đó có thửa đất số 120); như vậy, tại thời điểm xác lập giấy mua bán đất ngày
31/01/2023 thì thửa đất 120 chưa bị kê biên, chưa bị cưỡng chế để thi hành án,
không có tranh chấp và phát sinh trước các khoản nợ lập ngày 13/12/2023,
01/01/2024, 29/12/2023, 05/12/2023 giữa bà N, ông K với ông Tài, bà X; các khoản
nợ lập ngày 04/01/2024, 02/01/2024, 17/7/2023 giữa bà N, ông K với bà T, ông V.
Ông Tài, bà X cũng như bà T, ông V cho rằng giấy mua bán đất đề ngày
31/01/2023 là do bà N, ông K, ông V, bà T ngụy tạo nhưng không chứng minh
được ý kiến của các ông bà là có căn cứ, cũng không yêu cầu giám định nên không
có cơ sở để ghi nhận; Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Linh cho rằng “tại thời
điểm xác minh các thửa đất trên không có hồ sơ đăng ký biến động về quyền sử
dụng đất (trong đó có thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75). Chấp hành viên đã tiến
hành xác minh thực địa các quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, ước tính
sơ bộ giá trị tài sản không đủ thực hiện nghĩa vụ phải thi hành án” nhưng không
cung cấp được tài liệu chứng minh giá trị của toàn bộ 07 thửa đất đang bị kê biên
nên cũng không có cơ sở để chấp nhận. Mặt khác, thửa đất số 120 nêu trên không
phải là tài sản duy nhất của bà N và ông K, bởi vì ngoài thửa đất số 120 nêu trên thì
bà N, ông K còn 06 thửa đất khác cũng đang bị kê biên để thi hành án; do đó, không
có căn cứ chứng minh bà N và ông K tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ,
nghĩa vụ thi hành án; trên thực tế bà T, ông V cũng đã giao đủ số tiền
990.000.000đồng cho bà N, ông K và đầu tư xây dựng một số công trình trên đất,
trường hợp tuyên vô hiệu sẽ gây ảnh hưởng rất nhiều về quyền lợi của bà T, ông V.
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong vụ án số
39/2024/TLST-DS ngày 26/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh được áp
dụng từ ngày 26/01/2024, sau thời điểm hai bên lập giấy mua bán đất vào ngày
31/01/2023 và ký hợp đồng công chứng vào ngày 23/01/2024. Nên tại thời điểm
giao dịch (31/01/2023) thửa đất 120 nêu trên cũng không bị áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời.
Vì vậy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất gắn liền
với quyền sử dụng đất của các bà N, ông K với ông V, bà T không vi phạm Điều 24
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự số 64/2014/QH13
(được sửa đổi bởi Khoản 11 Điều 1 Nghị định 33/2020/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày
01/05/2020); đáp ứng các điều kiện được quy định tại Điều 188 của Luật đất đai
năm 2013.
Điều 188 của Luật đất đai 2013 quy định điều kiện thực hiện các quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp
quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất
14
1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng
quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và
trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất.
Điều 24 Nghị định 62/2015 quy định:
1. Kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải
thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản
cho người khác mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án và không còn
tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài
sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Khi kê biên tài sản, nếu có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông
báo cho đương sự, người có tranh chấp thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều
75 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm
thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản
bị chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố cho người khác thì
tài sản đó bị kê biên, xử lý để thi hành án; Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Tòa
án tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đối với tài sản đó.
Từ những phân tích pháp lý nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ để chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng:
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Nguyên đơn đồng ý
chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản; không yêu cầu
bị đơn trả lại số tiền trên, nên Hội đồng xét xử ghi nhận và không quyết định trong
bản án này.
Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên nguyên đơn không phải
chịu án phí DSST. Buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.
[5] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh tại
phiên tòa phù hợp với những nhận định nêu trên.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
15
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a và điểm c khoản
1 Điều 39; điểm g khoản 1 Điều 40; Điều 92; Điều 93; Điều 95; khoản 1 Điều 147,
Điều 165, 166, 227, 228, 235, 262, 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng: Điều 116, 117, 129, 500, 501, 502, 503 của Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 166, 188 của Luật đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 26 và điểm a khoản
3 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án. Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Công nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể
hiện qua giấy mua bán đất lập ngày 31/01/2023 giữa ông Nguyễn Trung K, bà
Huỳnh Thị Ngọc N với bà Huỳnh Thị Bích T và ông Nguyễn Anh V đối với thửa
đất số 120, tờ bản đồ số 75, diện tích 101m
2
đất, tọa lạc tại khu phố 6, thị trấn Dt,
huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 335040, do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Bình Thuận cấp ngày 31/5/2020, cấp cho bà Huỳnh Thị Ngọc N, ông
Nguyễn Trung K. (trong trường hợp các bên không bắt buộc phải thực hiện thủ tục
công chứng đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất)
Ghi nhận ý kiến tự nguyện của ông Nguyễn Trung K, bà Huỳnh Thị Ngọc N
với bà Huỳnh Thị Bích T và ông Nguyễn Anh V về việc công nhận hiệu lực của các
Điều 1,3,4,5,6,7 của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
23/01/2024, tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Thị Thùy T theo số công chứng
359, quyển số 01/2024/TP/CC- SCC/HĐGD.
Ghi nhận ý kiến tự nguyện của ông Nguyễn Trung K, bà Huỳnh Thị Ngọc N
với bà Huỳnh Thị Bích T và ông Nguyễn Anh V về việc hủy bỏ Điều 2 của Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 23/01/2024, tại Văn phòng Công
chứng Nguyễn Thị Thùy T theo số công chứng 359, quyển số 01/2024/TP/CC-
SCC/HĐGD.
Ông Nguyễn Anh V và bà Huỳnh Thị Bích T được quyền quản lý, sử dụng
thửa đất số 120, tờ bản đồ số 75, diện tích 101m
2
đất và tài sản gắn liền với đất
16
(theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ lập ngày 25/4/2024) tọa lạc tại khu phố 6,
thị trấn Dt, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 335040.
Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Đức Linh, cơ quan quản lý đất đai để thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất
đai (kể cả thủ tục tách thửa) đối với diện tích đất tranh chấp đã được giải quyết
trong Bản án này theo đúng quy định của Luật đất đai. Đồng thời, trong quá trình
thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai, các bên có liên quan phải có trách
nhiệm cung cấp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cơ quan quản lý
đất đai thực hiện thủ tục cấp lại giấy chứng nhận theo bản án/Quyết định đã tuyên.
Trường hợp một trong các bên đương sự không phối hợp thực hiện thủ tục
đăng ký biến động (kể cả thủ tục tách thửa), thì bên đương sự còn lại có quyền liên
hệ với cơ quan quản lý đất đai để thực hiện thủ tục đăng ký biến động (kể cả thủ tục
tách thửa), đồng thời ký các mẫu đơn theo quy định của pháp luật đất đai khi thực
hiện thủ tục đăng ký biến động (kể cả thủ tục tách thửa), cấp giấy chứng nhận đối
với diện tích đất tranh chấp theo quy định.
Về trách nhiệm nộp thuế, phí: Bà Huỳnh Thị Bích T và ông Nguyễn Anh V
có nghĩa vụ nộp toàn bộ số tiền thuế, phí phát sinh theo quy định. Giá chuyển
nhượng để làm căn cứ xác định nghĩa vụ thuế là 990.000.000đồng.
2. Về án phí:
- Buộc bà Huỳnh Thị Ngọc N, ông Nguyễn Trung K phải liên đới nộp số tiền
300.000 (bằng chữ: Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Án phí nộp tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh.
- Trả lại cho bà Huỳnh Thị Bích T và ông Nguyễn Anh V số tiền 300.000
(bằng chữ: ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân
sự huyện Đức Linh theo các biên lai thu tiền số: 0004270 ngày 11 tháng 3 năm
2024.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng
cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền
kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể
từ ngày bản án được niêm yết, để Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi

17
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND huyện Đức Linh;
- Chi cục THADS huyện Đức Linh;
- Lưu hồ sơ vụ án, tập án văn;
TM. HỘI ĐNG XT X SƠ THM
Thm phn – Ch ta phiên ta
Mai Thuận
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm