Bản án số 203/2024/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 203/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 203/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 203/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 203/2024/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hậu Giang |
Số hiệu: | 203/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẬU GIANG
Bản án số: 203/2024/DS-PT
Ngày: 26 – 9 – 2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp
hợp đồng vay tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đào Thị Thủy
- Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hồng Thanh
Bà Lê Thị Thọ
- Thư ký phiên tòa: Bà Hà Giang – Thư ký Tòa án, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu
Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang: Bà Phùng Bích Tuyền - Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 16 và 26 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Hậu Giang, công khai xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số: 170/2024/TLPT–DS ngày
19 tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số
07A/2024/DS-ST ngày 09 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Vị
Thanh, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc
thẩm số 170/2024/QĐ-PT ngày 02 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc C, sinh năm 1977; Địa chỉ: Khu V,
phường V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Vĩnh T,
sinh năm 1979; (Có mặt tại phiên tòa ngày 16/9/2024, có đơn xin vắng mặt tại phiên
tòa ngày 26/9/2024)
Địa chỉ: số B, đường C, khu V, phường I, thành phố V, tỉnh Hậu Giang. (Theo
văn bản ủy quyền ngày 12/9/2024).
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Nhật T1, sinh năm 1986; Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện
P, tỉnh Hậu Giang.
2
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Lê Kim B, sinh năm 1957; (Có
mặt)
Địa chỉ: 18/9/75, đường X, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ. (Theo văn
bản ủy quyền ngày 11/05/2024)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Nguyễn Ngọc T2, sinh năm 1978; Địa chỉ: Số E đường C, khu V,
phường B, quận B, Tp ..
Người đại diện theo ủy quyền của ông T2: Ông Lê Kim B, sinh năm 1957; (Có
mặt)
Địa chỉ: 18/9/75, đường X, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ. (Theo văn
bản ủy quyền ngày 11/05/2024)
3.2 Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1963;
3.3 Bà Trần Thị Ánh N (vợ ông H), sinh năm 1960;
Cùng địa chỉ: Số A đường T, khu V, phường V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
3.4 Ông Đặng Văn Đ, sinh năm 1956; Địa chỉ: Số A đường T, khu V, phường
V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
3.5 Ông Nguyễn Văn S (chồng bà C), sinh năm 1971;
3.6 Ông Nguyễn Văn T3 (cha bà C), sinh năm 1937;
3.7 Bà Nguyễn Thị L (chị bà C), sinh năm 1964;
Cùng địa chỉ: Khu V, phường V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
3.8 Ông Phạm Bảo H1, sinh năm 1989; (Có mặt tại phiên tòa ngày 16/9/2024,
vắng mặt tại phiên tòa ngày 26/9/2024)
3.9 Bà Lê Ngọc Anh P, sinh năm 1988;
Cùng địa chỉ: Số A, tổ A, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.
3.10 Văn phòng C1
Địa chỉ: Khu V, phường V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện hợp pháp: Ông Bùi Văn T4, sinh năm 1956; Địa chỉ: Khu V,
phường I, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
3.11 Ngân hàng thương mại cổ phần N3
Trụ sở: Số A đường T, phường L, quận H, Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp: Ông Trịnh Võ P1. Địa chỉ: Số E, đường H, phường
A, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. (Có mặt)
3.12 Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang
3
Địa chỉ: Đường Trần Ngọc Quế, khu vực 6, phường III, thành phố Vị Thanh,
tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Thanh T5 – chức vụ: Chi cục trưởng Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Hữu N1 – chức vụ: Thư ký Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. (Có mặt)
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án được
tóm tắt như sau:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C và người đại diện theo ủy quyền ông
Nguyễn Thành Vĩnh T trình bày:
Vào năm 2018 do cần tiền để trả nợ cho Ngân hàng thương mại cổ phần K (viết
tắt là Ngân hàng K) nên bà C được một người môi giới tên là T6 giới thiệu ông
Nguyễn Ngọc T2 (nhà ở thành phố Cần Thơ) cho bà C để vay tiền. Sau khi được
ông T6 giới thiệu thì ông T2 đến nhà bà C ở khu V, phường V, thành phố V, tỉnh
Hậu Giang để xem nhà và đất. Xem xong ông T2 đồng ý cho bà C vay tiền nhưng
với điều kiện bà C phải chuyển nhượng toàn bộ phần đất cho ông Nguyễn Nhật T1,
đất có diện tích 8.930,7m
2
tại các thửa 77, 78, 312, 500 và 501 theo Giấy chứng
nhận QSDĐ số 000449 cấp ngày 20/10/1995. Theo lời ông T2 thì ông T1 là người
làm của ông T2.
Đến ngày 17/10/2018 thì bà C, ông T2 và ông T1 cùng nhau đi đến Ngân hàng
K – Chi nhánh H2 để trả số nợ cho bà C. Tại đây ông T2 đã trả nợ thay cho bà C số
tiền hơn 800.000.000 đồng. Sau khi trả nợ xong thì buổi chiều cùng ngày bà C đã
đến Văn phòng C1 để ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho ông T1.
Sau khi ký hợp đồng xong thì ông T2 tiến hành cấn trừ tiền, cụ thể: ông T2
thỏa thuận cho bà C vay 1.000.000.000 đồng, trừ số tiền trả nợ thay hơn 800.000.000
đồng, trừ phí hoa hồng cho vay 100.000.000 đồng, thu lãi 01 tháng theo thỏa thuận
là 50.000.000 đồng, xong còn lại ông T2 đưa thêm cho bà C hơn 40.000.000 đồng
tiền mặt xem như bà C nợ ông T2 1.000.000.000 đồng. Riêng đối với ông Nguyễn
Nhật T1 thì bà C không có nhận bất cứ khoản tiền nào.
Khoảng 07 tháng sau thì bà C có vay thêm của ông T2 số tiền 208.000.000
đồng để trả nợ cho người khác. Sau khi nhận tiền vay lần 02 này thì ông T2 bắt bà
C phải viết biên nhận nợ với số tiền nợ gốc là 1.576.000.000 đồng. Biên nhận bản
chính do ông T2 giữ, bà C chỉ có giữ bản sao. Tính từ lúc vay đến nay bà C xác định
vẫn chưa trả cho ông T2 được số tiền gốc hay lãi nào.
Bà Nguyễn Thị Ngọc C yêu cầu Tòa án giải quyết: Tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ lập ngày 17/10/2018 giữa bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn
4
Nhật T1 vô hiệu vì đây là hợp đồng giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay tài sản, để
bà C sang tên lại phần đất của mình. Đối với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Ngọc
T2 yêu cầu bà trả số tiền gốc 1.628.000.000 đồng và tiền lãi thì bà C không đồng ý.
Bị đơn ông Nguyễn Nhật T1 và người đại diện theo ủy quyền ông Lê Kim B
trình bày:
Ngày 17/10/2018 ông T1 và bà C có ký hợp đồng và phụ lục kèm theo để
chuyển nhượng QSDĐ có diện tích 8.930,7m
2
, theo Giấy chứng nhận QSDĐ số
000449 cấp ngày 20/10/1995 gồm các thửa đất số 77, 78, 312, 500 và 501, đất tọa
lạc tại khu V, phường V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang với giá 1.000.000.000 đồng.
Tại thời điểm chuyển nhượng thì giấy chứng nhận QSDĐ của bà C đang thế chấp
tại Ngân hàng K, nên ông T1 đã nộp vào Ngân hàng K số tiền 713.948.920 đồng,
số tiền còn lại thì ông T1 đã đưa bằng tiền mặt cho bà C.
Sau khi xóa thế chấp xong, bà C còn phải có nghĩa vụ thi hành án nên đã bị Cơ
quan Thi hành án dân sự thành phố V ngăn chặn không cho chuyển nhượng sang
tên ông T1 nên ông T1 đã bỏ ra thêm số tiền 238.577.150 đồng nộp tại Cơ quan Thi
hành án để có thể làm thủ tục đăng ký sang tên đất. Khi sang tên đất xong thì ông
T1 làm hợp đồng cho bà C thuê lại toàn bộ phần đất nêu trên với giá thuê 50.000.000
đồng/tháng. Do bà C không trả tiền thuê đất nên ngày 14/4/2020 ông T1 đã chuyển
nhượng toàn bộ phần đất này cho ông Phạm Bảo H1.
Bà C khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ lập
ngày 17/10/2018 vô hiệu thì ông T1 không đồng ý, vì hợp đồng đã thực hiện xong.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc T2 và người đại diện
theo ủy quyền ông Lê Kim B trình bày:
Vào ngày 17/02/2019 ông T2 cho bà C mượn số tiền 1.576.000.000 đồng và
ngày 14/03/2019 ông T2 tiếp tục cho bà C mượn số tiền 52.000.000 đồng. Tổng
cộng 02 lần mượn là 1.628.000.000 đồng. Khi mượn bà C cam kết sẽ hoàn trả lại số
tiền trên trong thời hạn 03 tháng nếu như chậm trả bà sẽ chịu lãi suất 05%/tháng
nhưng đến nay bà C chưa trả tiền mượn và tiền lãi. Ông T2 yêu cầu độc lập yêu cầu
Tòa án giải quyết buộc bà C có trách nhiệm trả số tiền gốc đã mượn là 1.628.000.000
đồng và tiền lãi theo mức lãi suất quy định của pháp luật, thời gian tính lãi từ ngày
15/6/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Văn H và bà Trần Thị Ánh
N trình bày:
Vào ngày 21/10/2004 ông Nguyễn Văn T3 (cha bà C) và bà Nguyễn Thị L (chị
bà C) có lập hợp đồng bằng giấy tay chuyển nhượng cho vợ chồng ông H, bà N một
phần đất có diện tích 02 công tầm 3m (2.592m
2
), gồm một phần thửa đất số 500
(nay là thửa đất 127), loại đất CNm và một phần thửa đất số 501 (nay là thửa đất
205), loại đất 2L. Phần đất chuyển nhượng do ông T3 đứng tên trên giấy chứng
nhận, nhưng ông T3 đã nói miệng cho bà L nên ông H nhận chuyển nhượng từ bà
5
L, có chữ ký của ông T3 trong tờ giấy chuyển nhượng. Giá chuyển nhượng là
27.000.000 đồng, ông H, bà N đã trả đủ tiền cho bà L và đã nhận đất sử dụng. Trong
quá trình sử dụng ông H đã nhiều lần liên hệ với bà L để làm thủ tục sang tên nhưng
bà L cứ hẹn chưa sang tên được.
Ông Huỳnh Văn H yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử đụng đất lập ngày 21/10/2004 giữa ông Huỳnh Văn H và bà Trần
Thị Ánh N với ông Nguyễn Văn T3 và bà Nguyễn Thị L là hợp pháp để ông Hải
đăng k quyền sử dụng đất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Văn Đ trình bày:
Vào ngày 23/11/2011, bà C và chồng là ông Nguyễn Văn S có lập hợp đồng
bằng giấy tay chuyển nhượng cho ông Đ phần đất có diện tích 1.024m
2
thuộc một
phần thửa đất 500, loại đất CNm; và diện tích 3.900m
2
thuộc một phần thửa đất 501,
loại đất 2L. Với giá chuyển nhượng là 300.000.000 đồng, ông Đ đã trả đủ tiền cho
vợ chồng bà C, ông S và đã nhận đất sử dụng. Ông Đ đã nhiều lần liên hệ và yêu
cầu bà C, ông S sang tên nhưng không được do Giấy chứng nhận QSDĐ đã thế chấp
Ngân hàng.
Ông Đặng Văn Đ yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 23/11/2011 giữa ông Đặng Văn
Đ với bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn Văn S là hợp pháp, để ông Đ tiến
hành đăng ký quyền sử dụng đất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Bảo H1 trình bày:
Ông nhận chuyển nhượng đất từ ông Nguyễn Nhật T1 là có thật và phù hợp
với quy định pháp luật. Việc chuyển nhượng đất của ông là ngay tình. Phần đất này
hiện tại ông đã thống nhất giao cho Ngân hàng TMCP N3 xử lý để đảm bảo việc trả
nợ của ông đối với Ngân hàng. Đề nghị Tòa án tuyên bác yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1 có đại diện hợp pháp là
ông Bùi Văn T4 trình bày:
Vào ngày 17/10/2018, bà C và ông T1 có đến Văn phòng C1, hai bên tự nguyện
nộp các giấy tờ có liên quan gồm: giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu công chứng. Sau khi tiếp nhận và xem
xét hồ sơ yêu cầu công chứng thì Văn phòng công chứng đã tiến hành lập hồ sơ và
công chứng hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ trên tinh thần các bên tự nguyện,
không bị lừa dối, ép buộc và có đầy đủ tư cách pháp lý để ký kết hợp đồng. Tại thời
điểm công chứng các bên cam đoan đất không tranh chấp, không bị kê biên và thuộc
quyền định đoạt của bà C. Từ đó Văn phòng C1 đã tiến hành theo yêu cầu của hai
bên đối với Hợp đồng chuyển nhượng số 3847 ngày 17/10/2018. Về trình tự, thủ
tục Văn phòng chứng Bùi Quang N2 đã thực hiện đúng quy định của Luật Công
chứng năm 2014, Luật Đất đai năm 2013. Với những lý do như trên đề nghị Toà án
6
công nhận hợp đồng đã công chứng số 3847 ngày 17/10/2018 là hợp pháp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Vị Thanh có đại diện hợp pháp là ông Trần Thanh T5 trình bày:
Chi cục thi hành án thành phố Vị Thanh đang tổ chức thi hành Quyết định số
29/2022/QĐST-DS ngày 04/7/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh, tỉnh
Vĩnh Long thì ông Phạm Bảo H1 và bà Lê Ngọc Anh P phải thi hành trả cho Ngân
hàng TMCP N3 số tiền gốc, lãi tính đến ngày 24/6/2022 là 3.312.593.785 đồng và
lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng. Trường hợp ông H1 và bà P không có khả
năng trả nợ thì xử lý tài sản thế chấp theo hợp đồng đảm bảo mà các bên đã ký. Vì
vậy, đề nghị Toà án tiến hành xét xử vụ án đúng theo quy định pháp luật để đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 07A/2024/DS-ST ngày 09 tháng 01 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang tuyên xử như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C
về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
17/10/2018 giữa bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn Nhật T1 là hợp đồng vô
hiệu. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị
Ngọc C và ông Nguyễn Nhật T7 lập ngày 17/10/2018 số công chứng: 3847, quyển
số 02/2018TP/CC-SCC/HĐGD và phụ lục của Hợp đồng do Văn phòng C1 thực
hiện là hợp đồng hợp pháp và có hiệu lực.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
ông Nguyễn Ngọc T2. Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc C có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn
Ngọc T2 số tiền vay còn nợ tổng cộng là 2.371.905.000đ (Hai tỷ ba trăm bảy mươi
mốt triệu chín trăm lẻ năm nghìn đồng). Trong đó: nợ vốn là 1.628.000.000đ (Một
tỷ sáu trăm hai mươi tám triệu đồng), nợ lãi là: 743.905.000đ (Bảy trăm bốn mươi
ba triệu chín trăm lẻ năm nghìn đồng).
3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là ông Huỳnh Văn H. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
lập ngày 21/10/2004 giữa ông Huỳnh Văn H và bà Trần Ánh N với ông Nguyễn Văn
T3 và bà Nguyễn Thị L là hợp đồng vô hiệu.
3.1. Buộc ông Nguyễn Văn T3 và bà Nguyễn Thị L cùng có trách nhiệm hoàn
trả lại cho ông Huỳnh Văn H và bà Trần Ánh N số tiền 27.000.000đ (Hai mươi bảy
triệu đồng).
3.2. Buộc ông Huỳnh Văn H và bà Trần Ánh N có nghĩa vụ giao trả lại phần
đất thuộc thửa đất số 205, có diện tích 2.394,9m
2
, loại đất BHK; thửa đất số 127,
có diện tích 317m
2
, loại đất BHK, tờ bản đồ số 39, địa chỉ: khu V, phường V, thành
phố V, tỉnh Hậu Giang, được ký hiệu trong Mảnh trích đo địa chính số 448-2023 là
vị trí (A), (C) cho ông Phạm Bảo H1.
7
3.3. Buộc ông Nguyễn Văn T3 và bà Nguyễn Thị L phải có nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại cho ông Huỳnh Văn H và bà Trần Ánh N số tiền 279.385.200đ (Hai trăm
bảy mươi chín triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn hai trăm đồng).
4. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là ông Đặng Văn Đ. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
lập ngày 23/11/2011 giữa ông Đặng Văn Đ với bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông
Nguyễn Văn S là hợp đồng vô hiệu.
4.1. Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn Văn S cùng có trách nhiệm
hoàn trả lại cho ông Đặng Văn Đ số tiền 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng).
4.2. Buộc ông Đặng Văn Đ có nghĩa vụ giao trả lại phần đất thuộc thửa đất số
205, có diện tích 3.704,1m
2
, loại đất BHK; thửa đất số 127, có diện tích 1.149,5m
2
,
loại đất BHK, tờ bản đồ số 39, địa chỉ: khu V, phường V, thành phố V, tỉnh Hậu
Giang, được ký hiệu trong Mảnh trích đo địa chính số 448-2023 là vị trí (B), (D)
cho ông Phạm Bảo H1.
4.3. Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn Văn S cùng có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại cho ông Đặng Văn Đ số tiền 374.188.800đ (Ba trăm bảy mươi bốn
triệu một trăm tám mươi tám nghìn tám trăm đồng).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi chậm trả, án phí, chi phí tố tụng và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 05/02/2024, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C có đơn kháng cáo. Nội
dung kháng cáo: Yêu cầu cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng hủy hợp đồng
chuyển nhượng QSDĐ ngày 17/10/2018 giữa bà và ông Nguyễn Nhật T1, bà đồng
ý trả lại số tiền 1.576.000.0000 đồng và lãi suất theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo. Căn cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa bà C với ông T1 nhằm che giấu hợp đồng vay tài sản giữa bà C và
ông T2, bà C không có nhận bất cứ khoản tiền từ việc đặt cọc hay chuyển nhượng
đất của ông T1; Bà C cho rằng ông T1 và ông T2 là một người nên mới ký; Phần
đất này hiện tại bà C vẫn đang là người trực tiếp quản lý và sử dụng.
Đại diện ủy quyền của bị đơn trình bày: Ông T1 là người trực tiếp cùng với bà
C đến ngân hàng và ông là người nộp tiền vào tài khoản của bà C để làm thủ tục tất
toán hợp đồng tín dụng, lấy bằng khoán của bà C về để làm thủ tục sang tên; Hợp
đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bà C có ký xác nhận phía dưới
là đã nhận đủ số tiền một tỉ đồng. Do đó việc đại diện ủy quyền của nguyên đơn cho
rằng bà C không nhận tiền của ông T1 là hoàn toàn không đúng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang trình bày quan điểm:
8
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã thực hiện đúng quy định của pháp
luật tố tụng dân sự.Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị căn cứ khoản 1
Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên
tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng
xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/02/2024 nguyên đơn bà
Nguyễn Thị Ngọc C có đơn kháng cáo đúng theo quy định tại các Điều 271, 272,
273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên được xem là hợp lệ và chấp nhận
xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ngọc C:
[2.1] Theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 17/10/2018 thể
hiện bên chuyển nhượng là bà Nguyễn Thị Ngọc C có ký hợp đồng chuyển nhượng
cho bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Nhật T1 quyền sử dụng đất với tổng
diện tích 8930,7m
2
tại các thửa đất số 77, 78, 312, 500, 501, đất tọa lạc tại ấp C, xã
V, huyện V, tỉnh Cần Thơ (nay là khu V, phường V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang).
Đến ngày 12/6/2019 thì ông Nguyễn Nhật T1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định. Xét về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất lập ngày 17/10/2018 giữa bà C và ông T1 đã được lập thành văn bản, được
công chứng và đăng ký quyền sử dụng đất, đồng thời nội dung của hợp đồng là đúng
theo quy định tại Điều 122 của Bộ luật Dân sự và Điều 167, 188 của Luật đất đai
năm 2013, nên được công nhận là hợp pháp và đã có hiệu lực tại thời điểm đăng ký.
[2.2] Bà Nguyễn Thị Ngọc C cho rằng bà ký hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất với ông Nguyễn Nhật T1 là giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay tài sản
với ông Nguyễn Ngọc T2. Tuy nhiên, người đại diện hợp pháp của ông T2 và ông
T1 không thừa nhận, đồng thời xác định việc bà C vay tiền của ông T2 và việc bà C
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T1 là hai quan hệ độc lập, không có liên
quan với nhau. Theo hợp đồng thể hiện việc chuyển nhượng đất giữa bà C và ông
T1 diễn ra vào năm 2018, còn việc vay tiền giữa bà C và ông T2 diễn ra vào năm
2019, tức 02 thời điểm khác nhau. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện ủy quyền của
ông T1 cung cấp hợp đồng đặt cọc có xác nhận của bà C “Tôi đã nhận đủ số tiền
một tỉ đồng” và phiếu thu tiền của ngân hàng TMCP K chi nhánh H2 với số tiền
713.848.920 đồng nội dung là ông T1 nộp tiền vào tài khoản của bà C tại ngân hàng
để tất toán hợp đồng tín dụng khách hàng Nguyễn Thị Ngọc C; Từ đó việc đại diện
ủy quyền của bà C cho rằng không nhận tiền của ông T1 và cho rằng ông T1 và ông
T2 là một là không có cơ sở. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu
9
khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C về việc yêu cầu tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 17/10/2018 giữa bà Nguyễn Thị
Ngọc C và ông Nguyễn Nhật T1; Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Ngọc T2. Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc C có
nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Ngọc T2 số tiền vay còn nợ tổng cộng là
2.371.905.000đ (Hai tỷ ba trăm bảy mươi mốt triệu chín trăm lẻ năm nghìn đồng).
Trong đó: nợ vốn là 1.628.000.000đ (Một tỷ sáu trăm hai mươi tám triệu đồng), nợ
lãi là: 743.905.000đ (Bảy trăm bốn mươi ba triệu chín trăm lẻ năm nghìn đồng) là
hoàn toàn có cơ sở.
[3]. Xét thấy nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào
mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không có cơ sở để Hội
đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang là phù hợp
nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận,
căn cứ khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội về qui định mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
với số tiền là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc C
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 07A/2024/DS-ST ngày 09/01/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
Áp dụng:
- Các Điều 463; Điều 500; Điều 503 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về qui định mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc
C về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
17/10/2018 giữa bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn Nhật T1 là hợp đồng vô
hiệu. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị
Ngọc C và ông Nguyễn Nhật T1 lập ngày 17/10/2018 số công chứng: 3847, quyển
số 02/2018TP/CC-SCC/HĐGD và phụ lục của Hợp đồng do Văn phòng C1 thực
10
hiện là hợp đồng hợp pháp và có hiệu lực.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
ông Nguyễn Ngọc T2. Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc C có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn
Ngọc T2 số tiền vay còn nợ tổng cộng là 2.371.905.000
đ
(Hai tỷ ba trăm bảy mươi
mốt triệu chín trăm lẻ năm nghìn đồng). Trong đó: nợ vốn là 1.628.000.000
đ
(Một
tỷ sáu trăm hai mươi tám triệu đồng), nợ lãi là: 743.905.000
đ
(Bảy trăm bốn mươi
ba triệu chín trăm lẻ năm nghìn đồng).
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị được giữ
nguyên.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng. Chuyển số
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nguyên đơn đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai số
0000818 ngày 05/02/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh, tỉnh
Hậu Giang thành án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án
dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hậu Giang;
- TAND thành phố Vị Thanh;
- Chi cục THADS Tp. Vị Thanh;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Đào Thị Thủy
Tải về
Bản án số 203/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 203/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 590/2024/DS-PT ngày 26/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 565/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm