Bản án số 186/2023/HS-ST ngày 26/12/2023 của TAND huyện Diễn Châu (TAND tỉnh Nghệ An)
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 186/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 186/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 186/2023/HS-ST ngày 26/12/2023 của TAND huyện Diễn Châu (TAND tỉnh Nghệ An) |
|---|---|
| Tội danh: | |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Diễn Châu (TAND tỉnh Nghệ An) |
| Số hiệu: | 186/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 26/12/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Xét xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU
TỈNH NGHỆ AN
–––––––––––––––
Bản án số: 186/2023/HS-ST
Ngày: 26-12-2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––––––––––––––––––––––
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hồng Nhung
Các hội thẩm nhân dân: ông Phạm Văn Sơn và bà Hoàng Thị Thủy
- Thư ký phiên toà: bà Lê Hải Sâm - Thư ký TAND huyện Diễn Châu
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu tham gia phiên tòa: bà
Phạm Thị Hân - Kiểm sát viên
Ngày 26 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu,
tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số
162/2023/TLST-HS ngày 21/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
257/2023/QĐXXST-HS ngày 12/12/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Q; tên gọi khác: Không; sinh năm 1992 tại huyện D,
tỉnh Nghệ An; Nơi thường trú: xóm 8, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp:
Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:
Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc G và bà Phạm Thị S; Anh chị
em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Lê Thị T, sinh năm 1996; Con: có
03 con, con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2018. Tiền án: Không.
Tiền sự: Năm 2023, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18
tháng tại Quyết định số 17/2023/QĐ-TA ngày 26/4/2023. Chưa chấp hành xong.
Nhân thân: Năm 2012, bị Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh
xử phạt 07 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại
điểm đ, điểm m khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 tại Bản án số
16/2012/HSST ngày 15/5/2012. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/10/2016.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/8/2023, hiện đang bị tạm giam
tại Nhà tạm giữ Công an huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Cao Thị L, sinh năm 1960, trú
tại xóm 11, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:

2
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 21 giờ 30 ngày 23/8/2023, Vũ Văn T gọi điện thoại cho Ngô
Thanh B, sinh năm 1979, trú tại xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An hỏi “Có đồ
không?”, nghĩa là T hỏi có ma tuý hồng phiến bán không, B trả lời “Có”, T nói
tiếp “Bán cho anh một gói hồng phiến”, B đồng ý, hai bên thống nhất giá một
gói ma tuý hồng phiến là 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng). Đến
khoảng 10 giờ 00 phút ngày 24/8/2023, B đi xe máy một mình đến nhà T và đưa
cho T 01 (một) gói nilon màu xanh bên trong chứa ma tuý hồng phiến, T cầm gói
ma tuý rồi đưa cho B 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm nghìn đồng). Đến
khoảng 14 giờ 00 phút ngày 24/8/2023, T đang ở nhà thì nhận được điện thoại
của Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1992 trú tại xóm 8, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An
hỏi “Anh có ma tuý hồng phiến không?”, T trả lời “Có”, Q nói “Bán cho em
1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng)”, T đồng ý và hẹn Q đến nhà T
để lấy ma tuý và đưa tiền. Sau đó, Q một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu
Yamaha Jupiter, màu đỏ đen, biển kiểm soát 37F1-531.83 đến nhà T. Lúc này, T
lấy gói ma túy vừa mua được ra, đếm 25 (hai mươi lăm) viên bỏ vào bao nilon
màu đen đưa cho Q; số ma túy còn lại T cất vào tủ quần áo ở sân nhà. Đến
khoảng 21 giờ 50 phút cùng ngày, khi Nguyễn Ngọc Q đang đi trên đường liên
xóm thuộc xóm 8, xã D, huyện D tìm nơi sử dụng ma tuý thì bị tổ công tác Công
an huyện Diễn Châu phát hiện. Thu giữ cạnh vị trí đứng của Nguyễn Ngọc Q đứng
01 (Một) gói nilon màu đen, bên trong có chứa 07 (Bảy) viên nén màu hồng có đặc
điểm giống nhau, nghi là ma túy; 01 gói nilon màu đen, bên trong có chứa 05 viên
nén màu hồng có đặc điểm giống nhau, nghi là ma túy do Q thả xuống mặt đường và
01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng đã qua sử dụng. Tổ công tác
tiến hành niêm phong vật chứng, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa
đối tượng về trụ sở Uỷ ban nhân dân xã D, huyện D làm rõ sự việc.
Khoảng 23 giờ 20 phút ngày 24/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
huyện Diễn Châu tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với Nguyễn Ngọc Q tại
xóm 8, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật,
tài liệu gì.
Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 25/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an huyện Diễn Châu tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với Vũ Văn T
tại thôn 7, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An. Quá trình khám xét thu giữ tại bên trái
thành tủ quần áo bên ngoài sân nhà ở của T, 01 (Một) túi nilon màu xanh, bên
trong có chứa các viên nén màu hồng, nghi là ma túy; 01 (Một) chiếc điện thoại

3
di dộng nhãn hiệu Samsung Galaxy A72, số Imei 1: 357843232427031, số Imei
2: 353546292427031, màu xanh, đã qua sử dụng.
Ngày 25/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Diễn Châu đã
thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Vũ Văn T.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm
phong lại lập hồi 00 giờ 40 phút ngày 25/8/2023; biên bản mở niêm phong, xác
định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại lập hồi 12 giờ 00 phút ngày
25/8/2023; Bản kết luận giám định số: 874/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 30/8/2023
của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:
“Các mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1, M2) thu giữ khi bắt quả tang
Nguyễn Ngọc Q gửi giám định, đều là ma túy; loại Methamphetamine.
Số viên nén màu hồng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Ngọc Q có tổng khối
lượng 1,1 gam (Một phẩy một gam).
“Các mẫu viên nén màu hồng (thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ
Văn T gửi giám định là ma túy; loại Methamphetamine.
Số viên nén màu hồng thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Văn T có
tổng khối lượng 6,35 gam (Sáu phẩy ba mươi lăm gam).”
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc Q và Vũ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành
vi phạm tội của mình.
Vật chứng vụ án thu giữ:
- 05 (Năm) viên ma tuý Methmaphetamine có tổng khối lượng là 0,45 gam
(Không phẩy bốn mươi lăm gam), ký hiệu M1; 03 (Ba) viên ma tuý
Methmaphetamine có tổng khối lượng là 0,25 gam (Không phẩy hai mươi lăm gam),
ký hiệu M2; 02 (Hai) mảnh bao nilon màu đen và 01 (Một) phong bì thư niêm phong
ban đầu được niêm phong vào 01 (Một) phong bì thư theo đúng quy định.
- 58 (Năm mươi tám) viên ma tuý Methmaphetamine có tổng khối lượng là 5,4
gam (Năm phẩy bốn gam), là số ma túy còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định; 01 (Một)
mảnh nilon màu xanh và 01 (Một) phong bì thư niêm phong ban đầu được niêm
phong vào 01 (Một) phong bì thư theo đúng quy định.
- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng, đã qua sử dụng,
Imei: 3549520580938/4 thu giữ của Nguyễn Ngọc Q.
- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A72 màu xanh, đã
qua sử dụng, số imel 1: 351843232427031; số imel 2: 353546292427031 thu giữ
của Vũ Văn T.
Toàn bộ số vật chứng nêu trên hiện được bảo quản tại Kho vật chứng Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

4
- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ đen, biển kiểm
soát 37F1-531.83, đã qua sử dụng, qua xác minh là của bà Cao Thị L, (là mẹ vợ
của Quý). Việc Quý sử dụng chiếc xe máy đi mua ma tuý thì bà Cao Thị L
không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu theo quy định.
Tại Bản cáo trạng số 165/CT-VKS-DC ngày 16/11/2023 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Diễn Châu đã truy tố Nguyễn Ngọc Q về tội "Tàng trữ trái phép
chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu giữ nguyên
quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249,
điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt: Nguyễn Ngọc Q từ 18 đến 21
tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; miễn hình phạt bổ sung là phạt
tiền cho bị cáo;
Về vật chứng: áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố
tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi lấy mẫu giám định; tịch
thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu
trắng, đã qua sử dụng, Imei: 3549520580938/4 thu giữ của Nguyễn Ngọc Q và 01
điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A72 màu xanh, đã qua sử dụng, số
imel 1: 351843232427031; số imel 2: 353546292427031 thu giữ của Vũ Văn T.
Về án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội, không tranh luận
gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an
huyện Diễn Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm
sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội
dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa
phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp các tài liệu, chứng
cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, nên đủ căn cứ kết luận:
Vào khoảng 21 giờ 50 phút ngày 24/8/2023, tại đường liên xóm thuộc xóm 8, xã D,
5
huyện D, tỉnh Nghệ An, tổ công tác Công an huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An bắt
quả tang Nguyễn Ngọc Q đang có hành vi tàng trữ trái phép 12 (Mười hai) viên ma
túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng 1,1 gam (Một phẩy một gam) với mục
đích để sử dụng. Như vậy, hành vi mà Nguyễn Ngọc Q thực hiện đã đủ yếu tố cấu
thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ
luật hình sự như Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc Q khai nhận: số ma túy trên Q mua của
Vũ Văn T. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Văn T thu giữ 68 (Sáu
mươi tám) viên ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng 6,35 gam (Sáu
phẩy ba mươi lăm gam) với mục đích để bán kiếm lời. Trong quá trình điều tra, bị
can Vũ Văn T chết vào ngày 25/10/2023 do bị bệnh lý theo trích lục khai tử số
821/TLKT-BS ngày 26/10/2023. Do đó, Cơ quan điều tra đã đình chỉ việc điều tra
đối với Vũ Văn Thắng.
[2.2]. Về tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự: Vụ án thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho
xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước Việt Nam đối với
chất ma túy, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, có
01 tiền sự bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc nhưng chưa thi hành. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã
hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá
trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, có thái độ khai báo thành khẩn tỏ ra
ăn năn hối cải, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại
điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình
phạt cho bị cáo.
[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có việc làm thu nhập ổn định,
không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
[2.4]. Trong vụ án này còn có đối tượng Ngô Thanh B, sinh năm 1977, trú tại
xóm T, xã D, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An là người bán ma túy cho Vũ Văn T
(theo lời khai của T), qua xác minh hiện nay B không có mặt tại địa phương nên
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Diễn Châu tiếp tục xác minh, xử lý sau.
[2.5]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình
sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Đối với số ma túy thu giữ của Nguyễn Ngọc Q và Vũ Văn T còn lại sau khi
lấy mẫu giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy
- Đối với 02 mảnh bao nilon màu đen, 01 (Một) mảnh nilon màu xanh và 02
phong bì thư ban đầu không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy

6
- Đối với 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng, đã qua sử
dụng, Imei: 3549520580938/4 thu giữ của Nguyễn Ngọc Q và 01 (Một) điện thoại
di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A72 màu xanh, đã qua sử dụng, số imel 1:
351843232427031; số imel 2: 353546292427031 thu giữ của Vũ Văn T là công cụ
phạm tội cần tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước;
- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ đen, biển kiểm
soát 37F1-531.83, đã qua sử dụng, qua xác minh là của bà Cao Thị L. Việc
Nguyễn Ngọc Q sử dụng chiếc xe máy đi mua ma tuý thì bà Cao Thị L không
biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định
[2.6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự xử phạt Nguyễn Ngọc Q 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái
phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/8/2023.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Nguyễn Ngọc Q
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 điều 47 của Bộ luật Hình sự
và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của Nguyễn Ngọc Q và Vũ Văn T sau khi
lấy mẫu giám định còn lại gồm: - 05 (Năm) viên ma tuý Methmaphetamine có tổng
khối lượng là 0,45 gam (Không phẩy bốn mươi lăm gam), ký hiệu M1; 03 (Ba) viên
ma tuý Methmaphetamine có tổng khối lượng là 0,25 gam (Không phẩy hai mươi lăm
gam), ký hiệu M2; 02 (Hai) mảnh bao nilon màu đen và 01 (Một) phong bì thư niêm
phong ban đầu được niêm phong vào 01 (Một) phong bì thư theo đúng quy định.
- 58 (Năm mươi tám) viên ma tuý Methmaphetamine có tổng khối lượng là 5,4
gam (Năm phẩy bốn gam), là số ma túy còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định; 01 (Một)
mảnh nilon màu xanh và 01 (Một) phong bì thư niêm phong ban đầu được niêm
phong vào 01 (Một) phong bì thư theo đúng quy định.
Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động nhãn
hiệu Samsung màu trắng, đã qua sử dụng, Imei: 3549520580938/4 thu giữ của
Nguyễn Ngọc Q và 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A72
màu xanh, đã qua sử dụng, số imel 1: 351843232427031; số imel 2:
353546292427031 thu giữ của Vũ Văn T.
(Vật chứng trên hiện có tại Kho vật chứng Chi Cục thi hành án dân sự huyện
Diễn Châu theo Phiếu nhập kho số 24NK17 ngày 24/11/2023).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 23
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn,

7
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc Nguyễn Ngọc Q
phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo
quy định của pháp luật./.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Nghệ An;
- VKSND tỉnh Nghệ An;
- VKSND huyện Diễn Châu;
- Chi cục THADS huyện Diễn Châu;
- Công an huyện Diễn Châu;
- Sở Tư pháp tỉnh Nghệ An;
- Người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 03/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 02/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm