Bản án số 23/2025/DS-ST ngày 09/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 9 - Hà Nội, TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 23/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 23/2025/DS-ST ngày 09/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 9 - Hà Nội, TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 9 - Hà Nội, TP. Hà Nội
Số hiệu: 23/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN PHÚC THỌ, TP. NỘI Độc lp - T do - Hnh Phúc
-----------------------
Bn án s: 23/2023/ST-DS
Ngày 16 - 9 - 2023
V/v tranh chp Hp đồng đặt cọc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNGA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
T ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ NỘI
- Thành phn Hi đồng xét x sơ thm gm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa: Ông Hoàng Đức Hiếu
Các Hi thm nhân dân: Ông Lê Xuân Sơn ông Nguyn n Học
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyn Th An, Thư ký Tòa án nhân dân huyn Phúc Th
- Đại din Vin kim sát nhân n huyện Phúc Thọ, thành phố Nội
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Trường, Kim sát viên
Ngày 11 và 16 tháng 9 năm 2023 ti tr s Tòa án nhân n huyện Phúc
Thọ xét x sơ thm công khai v án th lý s 34/2022/TLST - DS ngày 11 tháng
10 năm 2022 v tranh chp hp đồng đặt cọc theo Quyết định đưa v án ra t
x s 27/2023/QĐST-DS ngày 23 tháng 8 năm 2023, gia các đương s:
Nguyên đơn:Nguyễn Thị L, sinh năm 1966. (vắng mặt)
Địa chỉ: Khu X, GX, thị trấn TT, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
Người đại diện theo y quyền của L: Ông Nguyễn Hùng S, sinh năm
1971. (có mặt)
Địa chỉ: Khu 3, thị trấn TT, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn
Thanh S, Văn phòng Luật Thành Sơn & Đồng sự, Đoàn Luật thành phố
Hà Nội. (có mặt)
Bị đơn: Ông Đỗ Đình B, sinh năm 1962. (vắng mặt)
Địa ch: Thôn YD, xã HT, huyn Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Đỗ Thị C, sinh năm 1956. (vắng mặt)
2. Anh Đỗ Đình X, sinh năm 1987. (có mặt)
Cùng nơi thường trú: Thôn YD, HT, huyện Phúc Thọ, thành phố
Nội
Người đại diện theo ủy quyền của ông B C: Anh Đỗ Đình X, sinh
năm 1987; nơi thường trú: Thôn YD, xã HT, huyện Phúc Thọ, thành phố
Nội. (có mặt)
NI DUNG V ÁN:
2
* Nguyên đơn là bà Nguyn Th L (do ông Nguyn Hùng S đi din theoy
quyn) trình bày:
Hộ Ông Đỗ Đình B thửa đất s209, tờ bản đồ số 07, diện tích 191m
2
đất tại HT, huyện Phúc Thọ đã được UBND huyện Phúc Thọ cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số S 661799 ngày 26/3/2002 đứng
tên chủ sử dụng hộ Ông Đỗ Đình B. Khoảng đầu tháng 5/2011, chị Đinh Thị H
họ hàng với gia đình ông B giới thiệu cho Nguyễn Thị L về việc ông B
muốn bán thửa đất số 209. Khi L đến nhà ông B, hai bên thỏa thuận giá
chuyển nhượng thửa đất số 209 giá 1.100.000.000 đồng. L đặt cọc trước
100.000.000đồng. Số tiền còn lại hẹn 28/6/2011 sẽ thanh toán nốt (sau khi hoàn
tất thủ tục). Việc các bên thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 209 đặt cọc
nêu trên có lập Giấy đặt cọc ngày 17/5/2011, ông B nhận đủ số tiền Bà L đặt cọc
là 100.000.000 đồng và dưới mục Người nhận tiền, Bà L dưới mục Người
giao tiền. Toàn bộ sự việc nêu trên có chị Đinh Thị H chứng kiến. Ngày
09/6/2011, Bà L chị H cùng anh Nguyễn Hùng S (cháu L và đại diện theo
ủy quyền của Bà L trong vụ án) đến nhà ông B. Bà L giao tiếp cho ông B số tiền
300.000.000đồng. Việc giao nhận tiền viết vào mặt sau của Giấy đặt cọc ngày
17/5/2011. Sau khi ông B nhận tiền xong, L bảo ông B đưa GCNQSDĐ của
thửa đất số 209 để L đến HT làm thủ tục khai nhân khẩu hộ ông B (vì
GCNQSDĐ thửa đất 209 đứng tên chủ sử dụng hộ Ông Đỗ Đình B) để đến
ngày hẹn 28/6/2011 đủ giấy tờ của các thành viên hộ ông B làm thủ tục
chuyển nhượng đất cho L. Ông B đưa GCNQSDĐ cho L. L, chị H
anh S đi ra đến đê (cách nhà ông B khoảng 100m) thì ông B đuổi theo đòi lại
GCNQSDĐ, bảo đông B tlên khai nhân khẩu của gia đình thì L trả
lại cho ông B nói: Anh chủ động đi khai nhân khẩu để đến ngày hẹn
28/6/2011 em trả nốt tiền thì làm Hợp đồng chuyển nhượng. Ông B đồng ý. Đến
ngày 28/6/2011, L đến nhà ông B để giao nốt số tiền còn lại lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng ông B vẫn chưa làm thủ tục khai
nhân khẩu nên không lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được.
Sau đó L việc gia đình phải đi xa nhiều năm. Trong thời gian này, nhiều
lần L về gặp ông B anh S2 (cán bộ địa chính HT) hỏi thủ tục chuyển
nhượng QSDĐ thửa đất số 209 của hộ Ông Đỗ Đình B nhưng cả ông B anh
S2 đều trả lời ông B chưa làm thủ tục khai nhân khẩu của gia đình ông B
nên chưa đủ điều kiện để lập Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đối với thửa đất
số 209 được. Đến cuối năm 2021, Bà L đến gặp ông B yêu cầu tiếp tục thực hiện
việc chuyển nhượng thửa số 209 nhưng gia đình ông B không hợp tác. vậy,
L làm đơn đề nghị tổ hòa giải của Thôn YD, HT hòa giải. Ngày
03/01/2022 ngày 17/01/2022, tổ hòa giải của Thôn YD, HT đã tiến hành
hòa giải giữa L với gia đình ông B về việc tranh chấp Hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ đối với thửa đất số 209. Tại các buổi hòa giải đó, 2 bên mua bán
3
đất đã thỏa thuận: L phải trả nốt cho ông B số tiền 700.000.000đồng tiền
lãi của số tiền này theo mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm Ngân hàng từ năm 2011
đến năm 2022, ông B bớt cho L 50.000.000đồng; sau khi L trả đủ tiền
cho gia đình ông B, ông B phải gửi sổ đỏ một sgiấy tờ để hoàn thiện hồ
cho L làm sổ đỏ, giấy tờ với pháp luật; tiền làm sổ đỏ, L phải chịu
trách nhiệm; tiền thuế đất phi nông nghiệp hàng năm, gia đình ông B phải nộp;
đến ngày 22/02/2022, ông B sẽ giải quyết cho L theo nội dung biên bản đã
ghi. Đến ngày 22/02/2022, Bà L, chị H và anh S đến nhà ông B để giao tiền cho
ông B theo thỏa thuận tại các Biên bản hòa giải nêu trên nhưng ông B không
đồng ý thực hiện theo thỏa thuận nữa. L tiếp tục đề nghị UBND xã HT hòa
giải vụ việc. Ngày 22/3/2022, UBND HT đã tiến hành hòa giải nhưng không
đạt kết quả.
L khởi kiện yêu cầu ông B phải trả cho L số tiền 400.000.000đồng
đã đặt cọc cho ông B yêu cầu ông B phải chịu phạt cọc số tiền
400.000.000đồng, tổng cộng, yêu cầu ông B phải trả cho L số tiền
800.000.000đồng.
* B đơn là Ông Đ Đình B trình bày:
Hộ gia đình ông B thửa đất số 209, tờ bản đồ số 07, diện tích 191m
2
đất tại HT, huyện Phúc Thọ đã được UBND huyện Phúc Thọ cấp
GCNQSD đất số S 661799 ngày 26/3/2002 đứng tên chủ sử dụng hộ Ông Đỗ
Đình B. Khoảng đầu tháng 5/2011, chị Đinh Thị H là người cùng làng với ông B
hỏi ông B nhu cầu bán thửa đất số 209 không. Lúc đó gia đình ông B có việc
cần đến tiền nên bảo bán. Chị H giới thiệu bà Nguyễn Thị L (nhà huyện
Hoài Đức) đến gặp ông B. Hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng thửa đất số
209 1.100.000.000đồng. L đặt cọc trước 100.000.000đồng. Số tiền còn lại
hẹn 28/6/2011 sẽ thanh toán nốt (sau khi hoàn tất thủ tục). Việc các bên thỏa
thuận chuyển nhượng QSDĐ thửa đất số 209 và đặt cọc nêu trên có lập Giấy đặt
cọc ngày 17/5/2011. Toàn bộ sự việc nêu trên chị Đinh Thị H chứng kiến.
Ngày 09/6/2011, L giao tiếp cho ông B số tiền 300.000.000đồng chị H
chứng kiến. Việc giao nhận tiền viết vào mặt sau của Giấy đặt cọc ngày
17/5/2011. Sau khi ông B nhận tiền xong, chị H bảo ông B đưa a đỏ của thửa
đất số 209. Ông B đưa a đỏ cho chị H. Khi chị H và L đi ra đến đê (cách
nhà ông B khoảng 70-80m) thì ông B đuổi theo đòi lại bìa đỏ và chị H trả lại cho
ông B. Sự việc dừng lại đó, các bên không gặp nhau hay điện thoại cho nhau
lần nào nữa. Đến đầu tháng 01/2022, L, ông S1 (theo L bảo cháu của
L), chị H 1 số người khác của Thôn YD đến gặp ông B, vợ ông B
(Nguyễn Thị C1, sinh năm 1956), con ông B (Đỗ Đình S3, sinh năm 1985 và Đỗ
Đức X, sinh năm 1987) yêu cầu gia đình ông B giao thửa đất số 209 cho L.
L bảo trả thêm cho ông B 200.000.000đồng nữa, tổng cộng giá mua thửa đất
là 1.300.000.000đồng nhưng ông B và gia đình không đồng ý.
4
Ngày 03/01/2022 ngày 17/01/2022, Tổ Hòa giải của Thôn YD đến gia
đình ông B hòa giải về việc ông B chuyển nhượng thửa đất số 209 cho Bà L. Tại
các buổi hòa giải đó, 2 bên mua bán đất đã thỏa thuận: Bà L phải trả nốt cho ông
B stiền 700.000.000đồng và còn phải trả tiền lãi của số tiền này theo mức lãi
suất tiền gửi tiết kiệm Ngân hàng từ năm 2011 đến năm 2022, tổng số tiền chưa
thanh toán cộng với tiền lãi, ông B bớt cho L 50.000.000đồng; sau khi L
trả đủ tiền cho gia đình ông B, ông B phải gửi sổ đỏ một số giấy tờ đ
hoàn thiện hồ cho L làm sổ đỏ, giấy tờ với pháp luật; tiền làm sổ đỏ, Bà L
phải chịu trách nhiệm; tiền thuế đất phi nông nghiệp hàng năm gia đình ông B
phải nộp; đến ngày 22/02/2022, ông B sẽ giải quyết cho Bà L theo nội dung biên
bản đã ghi. Khoảng 01 tuần sau khi tổ hòa giải của thôn hòa giải lần 2, Bà L, anh
S cùng tổ hòa giải của Thôn YD (bà Đ, bà T, bà M và bà P) đến nhà ông B, Bà L
bảo trả cho ông B 700.000.000đồng tiền lãi kể tnăm 2011 đến ngày trả tiền
đó nhưng ông B không đồng ý nữa tiền lãi không đáng kể so với giá trị của
thửa đất tại thời điểm tháng 01/2022.
Nay L yêu cầu ông phải trả tiền đặt cọc 400.000.000đồng tiền phạt
cọc 400.000.000đồng, tổng cộng 800.000.000đồng, ông không đồng ý trả cho
L đồng nào. từ năm 2011, khi L đặt cọc số tiền 400.000.000đồng
nhưng không tiếp tục thực hiện giao dịch chuyển nhượng thửa đất số 209 theo
thỏa thuận ghi trong giấy ngày 17/5/2011 cho đến đầu năm 2022 mới quay
lại yêu cầu tiếp tục thực hiện giao dịch. Nếu L muốn tiếp tục thực hiện giao
dịch chuyển nhượng thửa đất số 209 của gia đình ông B thì phải trả tiền theo g
hiện nay 5.000.000.000 đồng ông B sẽ trừ cho L số tiền
400.000.000đồng đã đặt cọc năm 2011.
Thửa đất số 209 của gia đình ông B chuyển nhượng cho L năm 2011,
hiện vẫn là đất trống, không xây dựng công trình gì trên đất.
* Tại phiên a, anh Đỗ Đình X người đại diện theo ủy quyền của ông
B trình bày: Năm 2011, vchồng ông B bà C cùng thống nhất chuyển nhượng
thửa đất số 209. Ông B đại diện đứng ra giao dịch chuyển nhượng thửa đất số
209 cho L. Số tiền 400.000.000đồng L đặt cọc cho ông B thì vợ chồng
ông B bà C đưa toàn bộ cho anh X và anh X đã sử dụng để thuê n 1 số việc
khác.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của L giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện của L, yêu cầu ông B phải trả cho L 400.000.000đồng tiền đặt
cọc 400.000.000đồng phạt cọc, tổng cộng 800.000.000đồng. Anh X đại diện
theo ủy quyền của ông B không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Bà L.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho L trình bày: Đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của L, buộc ông B phải trả
cho Bà L 400.000.000đồng tiền đặt cọc và 400.000.000đồng phạt cọc, tổng cộng
800.000.000đồng
5
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ phát biểu ý kiến: Về tố
tng: Quá trình thụ lý, gii quyết vụ án tại phiêna, a án, Hội đng xét xử
các đương sự thực hin đúng trình tự, thtục ca Bộ lut tố tụng n sự. Về nội
dung: Đề nghị Hi đồng xét xử: Áp dng khoản 2 Điều 358 của Bộ luật n s năm
2005: Chấp nhn đơn khi kiện ca bà Nguyễn Thị L, buộc Ông Đỗ Đình B phải trả
cho bà Nguyn Thị L tin đặt cọc 400.000.000đồng tiền phạt cc
400.000.00ồng, tổng cng 800.000.000đồng. Về án phí: Ông B đưc min nộp
tin án p dân sự sơ thẩm.
NHN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Đi vi yêu cu đòi tiền đt cọc ca bà Nguyễn Thị L:
Thông qua giới thiệu của chị Đinh Thị H con họ hàng với Ông Đỗ
Đình B nên Nguyễn Thị L biết ông B muốn thửa đất số 209, tbản đồ số 07,
diện tích 191m
2
đất tại HT, huyện Phúc Thọ đã được UBND huyện Phúc
Thọ cấp Giấy chứng nhận quyền s dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) số S
661799 ngày 26/3/2002 đứng tên chủ sử dụng hộ Ông Đỗ Đình B (sau đây gọi
tắt thửa đất số 209). L muốn mua thửa đất số 209 nên cùng chị H đến nhà
ông B. Hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng thửa đất số 209
1.100.000.000đồng. L đặt cọc trước 100.000.000đồng. Số tiền còn lại hẹn
28/6/2011 sẽ thanh toán nốt (sau khi hoàn tất thủ tục). Việc các n thỏa thuận
đặt cọc lập Giấy đặt cọc ngày 17/5/2011. Toàn bộ sự việc chị Đinh Thị
H chứng kiến. Ngày 09/6/2011, L chị H cùng anh Nguyễn Hùng S (cháu
Bà L đại diện theo ủy quyền của L trong vụ án) đến nhà ông B. L giao
tiếp cho ông B số tiền 300.000.000đồng. Việc giao nhận tiền viết vào mặt sau
của Giấy đặt cọc ngày 17/5/2011. Sau khi ông B nhận tiền, L bảo ông B đưa
GCNQSDĐ của thửa đất số 209 để L đến HT làm thủ tục khai nhân
khẩu hộ ông B (vì GCNQSDĐ thửa đất số 209 đứng tên chủ sử dụng hộ Ông
Đỗ Đình B) để đến ngày hẹn 28/6/2011 có đgiấy tờ của các thành viên hộ ông
B làm thủ tục chuyển nhượng QS cho Bà L. Ông B đưa GCNQSDĐ của thửa
đất số 209 cho L. L, chị H anh S đi ra đến đê (cách nhà ông B khoảng
100m) thì ông B đuổi theo đòi lại GCNQSDĐ ca thửa đất số 209, bảo để ông B
tự lên khai nhân khẩu của gia đình thì L trả lại cho ông B nói: Anh
chủ động đi khai nhân khẩu để đến ngày hẹn 28/6/2011 em trả nốt tiền t
làm Hợp đồng chuyển nhượng. Ông B đồng ý. Đến ngày 28/6/2011, L đến
nhà ông B để giao nốt số tiền còn lại ra UBND lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nhưng do ông B chưa làm thủ tục khai nhân khẩu
nên không lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được. Sau đó L
việc gia đình phải đi xa nhiều năm. Trong thời gian này, nhiều lần L về
gặp ông B anh S2 (cán bộ địa chính HT) hỏi thủ tục chuyển nhượng QSD
đất thửa đất số 209 của hộ Ông Đỗ Đình B nhưng cả ông B và anh S2 đều trả lời
6
ông B chưa làm thủ tục khai nhân khẩu của gia đình ông B nên chưa đủ
điều kiện để lập Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất đối với thửa đất số 209.
Cuối năm 2021, L đến gặp ông B yêu cầu tiếp tục thực hiện việc chuyển
nhượng thửa số 209 nhưng gia đình ông B không hợp tác. Vì vậy, L làm đơn
đề nghị tổ hòa giải của Thôn YD, HT hòa giải. Ngày 03/01/2022 ngày
17/01/2022, tổ hòa giải của Thôn YD, xã HT đã tiến hành hòa giải giữa Bà L với
gia đình ông B về việc tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất đối với
thửa đất s209. Tại các buổi hòa giải đó, L gia đình ông B đã thỏa thuận
tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 209. Cụ thể: L phải
trả nốt cho ông B số tiền 700.000.000đồng trả tiền lãi của số tiền này theo
mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm Ngân hàng từ năm 2011 đến năm 2022, ông B bớt
cho L 50.000.000đồng; sau khi L trả đủ tiền cho gia đình ông B, ông B
phải gửi sổ đỏ ký một số giấy tờ để hoàn thiện hồ cho L làm sổ đỏ,
giấy tvới pháp luật; tiền làm sổ đỏ, L phải chịu trách nhiệm; tiền thuế đất
phi nông nghiệp hàng năm, gia đình ông B phải nộp; đến ngày 22/02/2022, ông
B sẽ giải quyết cho L theo nội dung biên bản đã ghi. Ngày 22/02/2022,
L, chị H và anh S đến nhà ông B để giao tiền cho ông B theo thỏa thuận như các
Biên bản hòa giải nêu trên nhưng ông B không đồng ý thực hiện theo thỏa thuận
nữa. Ngày 22/3/2022, UBND HT đã tiến hành hòa giải vụ việc nhưng không
đạt kết quả.
Xét thấy, thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 209 giữa Ông Đỗ Đình B
Nguyễn Thị L thể hiện tại Giấy đặt cọc ngày 17/5/2011 được các bên xác
lập hoàn toàn tự nguyện. L ông B đều thừa nhận L đã đặt cọc cho ông
B stiền 400.000.000đồng để thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thửa
đất số 209. Sau đó, cả 2 bên đều không tích cực xúc tiến thực hiện các nghĩa vụ
tiếp theo để thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thửa đất số 209 theo
thời gian đã thỏa thuận nên lỗi thuộc về cả 2 bên. Tuy nhiên vào các ngày
03/01/2022 17/01/2022, các bên lại thỏa thuận tiếp tục thực hiện Hợp đồng
chuyển nhượng QSDĐ thửa đất số 209, thể hiện tại các biên bản hòa giải của tổ
hòa giải Thôn YD, HT, lời khai của các thành viên tổ hòa giải cũng như các
bên đương sự đều thừa nhận. Cụ thể: “Số tiền 700.000.000đồng Bà L chưa thanh
toán thì Bà L phải trả nốt cho ông B phải trả tiền lãi của số tiền này theo mức
lãi suất tiền gửi tiết kiệm Ngân hàng từ năm 2011 đến năm 2022, ông B bớt cho
L 50.000.000đồng; sau khi L trả đủ tiền cho gia đình ông B, ông B phải
gửi sổ đỏ một số giấy tờ để hoàn thiện hồ sơ cho L làm sổ đỏ, giấy tờ
với pháp luật; tiền làm sổ đỏ, Bà L phải chịu trách nhiệm; tiền thuế đất phi nông
nghiệp hàng năm, gia đình ông B phải nộp; đến ngày 22/02/2022, ông B sẽ giải
quyết cho L theo nội dung biên bản đã ghi”. Ngày 22/02/2022, L, chị H
và anh S đến nông B để giao tiền cho ông B theo thỏa thuận như các Biên bản
hòa giải nêu trên nhưng ông B không đồng ý thực hiện theo thỏa thuận nữa. Như
vậy, ông B đã vi phạm thỏa thuận, tchối giao kết, thực hiện hợp đồng chuyển
7
nhượng QSDĐ thửa đất số 209.
Căn c quy đnh tại khon 2 Điu 358 ca Bộ luật
Dân s m 2005 và mc
1 Phần I Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP của Tòa án
nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một
số loại tranh chấp dân sự, L khởi kiện yêu cầu ông B trả lại tiền đặt cọc là
căn cứ.
[
2]. Đối với yêu cu đòi tiền phạt cc ca Nguyn ThL:
Do
ông B vi phạm thỏa thuận, từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng QSDĐ thửa đất số 209 ngày 17/5/2011 (như phân tích tại mục
[1]) và
các bên kng có thỏa thuận kc vvic pht cc. Căn cquy định tại khon
2 Điu 358 ca Bluật Dân s năm 2005 mc
1 Phần I Nghị quyết 01/2003/NQ-
HĐTP của Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, L yêu cầu đòi tiền phạt cọc đối
với ông B là có căn cứ.
[3]. Về án p:
Ông Đỗ Đình B phi chu án phí dân sự thẩm theo qui
định ca pháp lut. Tuy nhiên, ông B sinh năm 1962, năm nay đã trên 60 tuổi;
do vậy, căn cứ Điều 2 của Luật Người cao tuổi năm 2009 thì ông B thuộc diện
người cao tuổi nên được miễn nộp án phí dân sự. Hoàn trả Nguyễn Thị L số
tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các l trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dng Điu 358 của Blut n sự năm 2005; Điều 147 của Bộ luật Tố
tụng dân s năm 2015; Pháp lệnh án phí, lphí số 10/2009/PL-UBTVQH 12
ngày 27/12/2009 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội;
X: 1. Chp nhn yêu cu khi kin ca bà Nguyễn Thị L v vic tranh
chp hp đồng đặt cọc đối vi Ông Đỗ Đình B.
2. Buc Ông ĐĐình B phi tr cho Nguyễn Thị L 400.000.000đồng
tiền đặt cọc 400.000.000đồng tiền phạt cọc, tổng cộng 800.000.000đồng (tám
trăm triệu đồng).
3. Về lãi suất chậm trả: Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu
thi hành án người phải thi hành án không thi hành thì còn phải chịu lãi suất
phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo sự thỏa thuận của các bên nhưng
không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật
dân sự năm 2015, nếu không thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2
Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
4. V án phí: Ông Đỗ Đình B được miễn nộp án phí dân s sơ thm. Hoàn
trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền 18.000.000đ (mười tám triệu đồng) tiền tạm
ứng án phí đã nộp. (Biên lai thu số 0040283 ngày 11/10/2022 của Chi cục Thi
hành dân sự huyện Phúc Thọ)
5.
V quyn kng cáo: Căn c Điều 271, 273 của B lut t tng dân s: Các
đương s được kháng o bn án trong hạn 15 ngày ktừ ny tun án.
Ngưi không
8
có mt ti phiên tòa thì thi hn kháng cáo đưc tính t ngày h nhn đưc bn án hoc
bn án đưc niêm yết.
6. Về thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo
qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự tngười được thi hành án dân sự,
người phải thi hành án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định
tại các Điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực
hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- TAND TP. Hà Nội;
- VKSND huyện Phúc Thọ;
- THADS huyện Phúc Thọ;
- Các đương sự:
- Lưu hồ sơ.
Hoàng Đức Hiếu
CÁC HỘI THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Hoàng Đức Hiếu
9
Tải về
Bản án số 23/2025/DS-ST Bản án số 23/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 23/2025/DS-ST Bản án số 23/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất