Bản án số 166/BA ngày 14/07/2022 của TAND TP. Cà Mau, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng vận chuyển

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
  • Bản án số 166/BA

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 166/BA

Tên Bản án: Bản án số 166/BA ngày 14/07/2022 của TAND TP. Cà Mau, tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng vận chuyển
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vận chuyển
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cà Mau (TAND tỉnh Cà Mau)
Số hiệu: 166/BA
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/07/2022
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ÔNG QUÂN YÊU CẦU ÔNG TÙNG TRẢ TIỀN
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ CÀ MAU Độc lập – Tự do Hạnh phúc
TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 166 /2022/DS-ST
Ngày 14 7 2022
V/v tranh chấp hợp đồng vận chuyển
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Ông ơng Tiến Sĩ
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Võ Sĩ Hùng
Ông Huỳnh Hoàng Khởi
- Thư phiên toà: Huyền Trang Thư Toà án nhân dân thành
phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
Trong ngày 13,14 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố
Mau xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 63/2022/TLST-DS, ngày 18
tháng 02 năm 2022 vviệc tranh chấp hợp đồng vận chuyển theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 183/2022/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 6 năm 2022 giữa các đương
sự :
Nguyên đơn: Ông Trương Thanh Qu, sinh năm : 1968; Địa chỉ: 149F, đường
Nguyễn Tất Thành , Khóm A, Phường B, thành phố C, tỉnh D. Có mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn T, sinh năm : 1975; Địa chỉ : 42/5B, đường Lâm Thành
Mậu, Khóm G, Phường H, thành phC, tỉnh D. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN :
Ông Trương Thanh Qu trình bày : Vào ngày 13/12/2019 dương lịch ông thuê
chủ xe tải tên T để vận chuyển số tài sản gồm 35 món hàng từ đường Cách Mạng
Tháng Tám, Khu Phố 10, Thị Trấn J, huyện K, tỉnh E về nhà trọ Trương Qu tại ấp Bà
Điều, xã F, thành phố C, tỉnh D. Việc thuê vận chuyển với xe tải nhỏ trọn gói bao
gồm cả mua phà cho xe người với tổng số tiền 5.500.000đ. Quá trình vận
chuyển, dọn nhà, tài xế phụ xế, cùng hai người nhà ông dọn, ông chụp lại hình
ảnh tại căn nnhững vật dụng trước khi lên xe. Theo yêu cầu của ông T ông đã
chuyển khoản cho tài xế Lâm Đoàn Tr số tiến 1.500.000đ. Sau đó người nhà ông
Bùi Thị tại Phú Quốc giao cho ông Tr 2.200.000đ, việc đưa tiền không làm biên
2
nhận. Từ khi giao cho ông T vận chuyển số hàng hóa ông đã giao tiền cho ông T
nhưng chưa nhận được hàng hóa, hiện ông T đang quản tài sản của ông, với tổng
giá trị 97.000.000đ. Nay ông yêu cầu ông T trả lại cho ông toàn bộ tài sản trị giá
97.000.000đ.
Ông Nguyễn T trình bày : Ngày 11/12/2019 ( nhằm ngày 16/11/2019 âm lịch)
ông Trương Thanh Qu thuê ông ch hàng từ bến phà Kiên Giang về nhà trọ
Trương Qu tại ấp Bà Điều, xã F, thành phố C với giá 2.000.000đ thì ông đồng ý. Theo
thỏa thuận phía ông Qu sẽ chuyển hàng từ Phú Quốc sang bến phà Kiên Giang để ông
vận chuyển về Mau. Nhưng khi xe ông đến nơi thì ông Qu chưa chuyển đồ sang,
khi liên hệ ông Qu kêu ông cho xe chạy lên bến phà Tiên và ông Qu sẽ trả thêm
1.500.000đ thì ông đồng ý. Khi đến bến phà Tiên phía ông Qu vẫn chưa chuyển
hàng tPhú Quốc qua, thì ông Qu liên hệ nói cho xe qua Phú Quốc ông Qu sẽ trả
thêm 1.000.000đ, tổng cộng 4.500.000đ, tiền qua phà ông Qu trả. Sau đó ông Qu
chuyển khoản cho tài xế tên Tr 1.500.000đ. khi xe qua đến địa chỉ tại Phú Quốc phía
ông Qu vẫn chưa dọn đồ xong tài xế tên Tr phụ xế tên K đã phụ dọn, tuy nhiên
vẫn không kịp về trong ngày, vậy ông Qu thỏa thuận trả thêm 1.000.000đ, tổng
cộng 5.500.000đ không bao gồm tiền phà. Ngày 14/12/2019 khi xe về tới Phường B,
thành phố C tông liên hệ ông Qu để nhận hàng nhưng không liên hệ được, khi đến
địa chỉ giao hàng lúc thỏa thuận thì ông gặp con gái ông Qu con ông Qu kêu
chuyển hàng ra nhà sau, tiền xe tkhông thanh toán nên ông không chuyển hàng
xuống đến nhà mẹ ông Qu, thì thiếm nói con đừng đđồ nhà nó, không trả
tiền con đâu, con cứ chở về nhà hoặc gửi ở đâu, khi nào nó trả tiền xe thì con hãy chở
qua ”. Do đó ông đã thuê nhà trọ địa chỉ khóm G, phường H, thành phố C để gửi
hàng, với giá 800.000đ/tháng. Đến khoảng 3 - 4 tháng sau ông Qu liên hệ nhận hàng
và hẹn hôm sau sang chở đồ về nhưng ông Qu không đến, và nhiều lần ông Qu liên hệ
như vậy nhưng không đến. Nay ông Qu yêu cầu ông bồi thường số tiền 97.000.000đ
ông không đồng ý. Ông chỉ đồng ý trả lại ông Qu số đồ hiện ông đang giữ tổng cộng
là 24 món theo danh sách liệt kê mà ông nộp cho Tòa án kèm theo bản tự khai. Ngoài
ra ông T yêu cầu Tòa án buộc ông Qu trả cho ông tổng số tiền 17.500.000đ (trong đó
tiền thuê xe 5.500.000đ, tiền thuê phòng trọ gửi đồ là 12.000.000đ).
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN :
[2]Về nội dung tranh chấp giữa các đương sự được xác định hợp đồng vận
chuyển tài sản. Tại phiên tòa ông Qu cho rằng ông thuê ông T vận chuyển hàng hóa
cho ông từ Phú Quốc về Mau gồm : máy lạnh, tủ lạnh, bàn, ghế, chén, xoong nồi,
bình gas…tổng cộng 35 vật dụng theo danh sách liệt ông nộp cho Tòa án, nhưng
ông Tùng không giao cho ông chiếm giữ luôn không trả nên ông yêu cầu ông
Tùng bồi thường cho ông thiệt hại các món đtrên với số tiền 97.000.000đ, ngoài
ra ông không yêu cầu gì thêm. Tại tòa ông T thừa nhận nhận chở thuê cho ông Qu,
nhưng tổng cộng chỉ 24 món chứ không phải 35 món như ông Quân trình bày, còn
3
việc ông giữ đồ không giao cho ông Qu do gia đình ông Qu không nhận ông
nhiều lần gọi ông Qu nhưng không liên lạc được. Nay ông Qu yêu cầu ông bồi thường
số tiền 97.000.000đ ông không đồng ý, ông đồng ý trả lại cho ông Qu 24 món tài
sản theo danh sách ông liệt kê, đồng thời ông yêu cầu ông Qu trả ông 5.500.000đ
tiền thuê xe và 12.000.000đ tiền thuê nhà trọ để chứa đồ.
Xét yêu cầu của nguyên đơn Hội đồng xét xthấy rằng : Việc các bên giao
dịch thuê xe vận chuyển tài sản thật xảy ra, điều này được nguyên bị đơn thừa
nhận. Tuy nhiên quá trình thuê xe đôi bên không ký hợp đồng bằng văn bản và nêu cụ
thể vận chuyển tài sản gì, số lượng bao nhiêu, chủng loại ra sao, cách thức giao
nhận hàng như thế nào, ai trả tiền chi phí phát sinh và trách nhiệm bồi thường như thế
nào ? Do đó việc ông Qu cho rằng khi thuê ông T vận chuyển các tài sản tông
chụp hình lại nhắn tin cho ông T xem không sở. Bởi lời trình bày của ông
Qu không được ông T thừa nhận, mặt khác tại phiên tòa ông Qu trình bày những hình
ảnh ông nộp tại hồ khởi kiện do ông chụp lại khi thuê xe ông T vận chuyển vào
ngày 12/12/2019 dương lịch, trong khi đó tại hình chụp do ông Qu cung cấp tại bút
lục số 06 thể hiện ngày chụp hình ngày 20/11/2019, cho nên việc ông Qu trình bày
không đúng với sự thật diễn ra. vậy lời trình bày của ông T căn cứ nên
được chấp nhận.
Đối với việc ông Qu đặt ra yêu cầu ông T bồi thường số tiền 97.000.000đ. Vấn
đề này Hội đồng xét xử xét thấy khi giao tài sản cho ông T vận chuyển thì ông Qu
không nêu cụ thể từng loại tài sản gì, có còn sử dụng được hay không các chứng từ
chứng minh cho số tài sản được vận chuyển giá bao nhiêu tiền ...? Nên việc ông Qu
yêu cầu ông T bồi thường số tiền 97.000.000đ là không có cơ sở chấp nhận. Do đó ghi
nhận sự tự nguyện của ông T trả lại cho ông Qu tổng cộng 24 tài sản mà ông đang
quản lý là phù hợp.
Đối với yêu cầu của ông T về việc yêu cầu ông Qu trả tiền thuê xe 5.500.000đ
và tiền thuê nhà trọ để tài sản là 12.000.000đ, tổng cộng hai khoản là 17.500.000đ.
Xét thấy quá trình giải quyết vụ án ông T làm đơn phản tố yêu cầu ông Qu
trả khoản tiền này Tòa án đã ra thông báo cho ông T nộp tiền tạm ứng án phí
nhưng ông T không nộp, nên Tòa án không thông báo thụ lý yêu cầu phản tcủa ông
T cho các đương sự biết theo quy định. Tuy nhiên, trong vụ án này các bên tranh chấp
sự liên hệ qua lại với nhau, nếu tách ra giải quyết thành vụ án khác thì không giải
quyết dứt điểm vụ án nên Hội đồng xét xử đưa phần yêu cầu này của ông T xem xét
giải quyết trong cùng vụ án này để giải quyết toàn diện vụ án là phù hợp.
Xét việc nguyên bị đơn thỏa thuận thuê xe với giá 5.500.000đ thật,
điều này được đôi bên thừa nhận tại phiên tòa. Tuy nhiên, ông Qu xác định đã chuyển
khoản và đưa tiền mặt cho tài xế của ông T tổng số tiền 3.700.000đ. Tại phiên tòa ông
T thừa nhận ông Qu đưa khoản tiền này, nhưng ông cho rằng đây tiền trả tiền
qua phà khi đi Phú Quốc đôi bên thỏa thuận khi vận chuyển tài sản, nhưng trình
bày của ông T không được ông Qu thừa nhận. Vấn đnày Hội đồng xét xnhận thấy
4
khi giao dịch với nhau đôi bên không kết hợp đồng bằng văn bản , không ghi
các điều khoản cụ thể như thế nào, số tiền bao nhiêu, chi pquá trình vận chuyển
phát sinh ai chịu... như đã phân tích trên, do đó lời trình bày của ông T cho rằng ông
Qu phải chịu tiền qua phà đi Phú Quốc là không có cơ sở chấp nhận. Còn đối với việc
ông T yêu cầu ông Qu thanh toán khoản tiền thuê nhà trọ để chứa các tài sản nêu trên.
Xét khi chở các tài sản từ Phú Quốc về đến Cà Mau ông T không giao cho ông Qu
chở về nhà, đây là do lỗi của ông T tự gây ra, bởi tại phiên tòa ông T thừa nhận khi
giao tài sản cho ông Qu thì con ông Qu kêu đem để phía sau nhưng do ông Qu không
trả tiền thuê xe đôi bên không thỏa thuận việc trả tiền thêm khi xuống hàng nên
ông không thực hiện, chở đồ vnhà cất giữ. Với lời trình bày này cho thấy việc
việc ông T thuê nhà do ông tự thuê, không có sự thống nhất của ông Qu nên ông
tự gánh chịu.
Do đó với các căn cứ trên yêu cầu của ông T yêu cầu ông Qu thanh toán khoản
tiền thuê xe 5.500.000đ 12.000.000đ tiền thuê nhà trọ không sở chấp
nhận, chỉ chấp nhận yêu cầu của ông T buộc ông Qu trả số tiền còn lại
1.800.000đ.
[3]Về án phí dân sự thẩm giá ngạch các đương sự phải chịu theo quy
định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH :
Căn cứ Điều 115, 116,530 Bộ luật Dân sự; Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận yêu cầu của ông Trương Thanh Qu yêu cầu ông Nguyễn T
bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền 97.000.000đ.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn T hoàn trả cho ông Qu các vật dụng
trong gia đình hiện ông T đang giữ gồm : 01 máy lạnh, 01 t lạnh, 01 tủ quần áo
bằng nhựa giả gỗ, 01 giường gnệm, 01 tthần tài và ông thần tài, thổ địa, 01
camera, 03 tấm ván khoảng 4cm, 01 bàn tròn tre + 02 ghế, 03 bàn vuông mặt gỗ chân
sắt sơn đen, 06 ghế nhựa + 06 ghế đỏ, 01 ghế bật dựa, 02 kệ chân sắt sơn trắng, xoong
nồi + tô, 01 kệ chén bằng mủ, 02 nồi cơm điện, 01 quạt gió đứng lớn + 01 quạt nhỏ,
01 tủ bếp nhôm có 01 bếp lớn + 01 bếp nhỏ, 02 bình gas, 01 tượng mẹ quan âm, 02 lò
than, 01 tấm bạt che, 01 giỏ đựng đồ linh tinh, 04 tấm thảm cỏ màu xanh.
Buộc ông Trương Thanh Qu trả cho ông Nguyễn T số tiền thuê xe n lại
1.800.000đ.
Kể từ ngày ông Nguyễn T đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Trương Thanh
Qu không thi hành khoản tiền nêu trên thì còn phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo
5
mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tại thời điểm thanh
toán tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn T yêu cầu ông Trương Thanh Qu trả
số tiền thuê nhà trọ là 12.000.000đ và khoản tiền trả tiền phà đi phú Quốc là
3.700.000đ.
2. Án phí dân s thẩm giá ngạch ông Trương Thanh Qu phải chịu
4.940.000đ, ngày 17/02/2022 ông Quân đã dự nộp 2.425.000đ theo biên lai số
0000860 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Mau được đối trừ chuyển thu
Ngân sách nhà nước, ông Quân phải nộp tiếp 2.515.000đ khi bản án hiệu lực; Ông
Nguyễn T phải chịu 785.000đ ( chưa nộp ).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điêù 6,7,7a 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Các đương sự quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. bản
án.
TM . HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Lương Tiến Sĩ
Nơi nhận:
- TAND Tỉnh Cà Mau;
- VKSND Tp. Cà Mau;
- Đương sư;
- Lưu Hồ sơ,
- Lưu Án văn (VPTANDTPCM);
- Lưu VT ( TM:TANDTPCM ).
Tải về
Bản án số 166/BA Bản án số 166/BA

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất