Bản án số 359/2025/DS-PT ngày 12/08/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 359/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 359/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 359/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 359/2025/DS-PT ngày 12/08/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
Số hiệu: | 359/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/08/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn Truong Thị L- Nguyễn Bá T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Nguyễn Thị Nga
Ông Nguyễn Viết Hùng
Bà Lê Hồng Hạnh
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tường Vi - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểmnhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên toà: Bà Nguyễn
Thị Thanh H - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 8 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử
phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 75/2025/TLPT-
DS ngày 13 tháng 6 năm 2025 về việc: “Tranh chấp tài sản chung, hợp đồng vay tài
sản”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2025/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2025 của
Toà án nhân dân huyện Bù Đăng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 12 –Đồng Nai)
bị kháng cáo. Theo quyếtđưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 304/2025/QĐXXPT-DS
ngày 14 tháng 7 năm 2025, giữa:
- Nguyên đơn: bà Trương Thị L, sinh năm 1964 và ông Nguyễn Văn H1, sinh
năm 1966; địa chỉ: xóm Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An. (nay là xã Y, tỉnh Nghệ
An)
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: bà Nguyễn Thị T, sinh năm
1995; địa chỉ: khu Đ, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước. (nay là khu Đ, xã B, tỉnh
Đồng Nai)
- Bị đơn: ông Nguyễn Bá T1, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm
1987; địa chỉ: thôn S, xã P, huyện B, tỉnh Bình Phước. (nay là xã T, tỉnh Đồng Nai).
*Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Bá T1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 359/2025/DS-PT
Ngày: 12 - 8 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/02/2024 nguyên đơn trình bày: Vợ chồng bà
và vợ chồng con gái bà là Nguyễn Thị P và Nguyễn Bá T1 có chung tiền cùng mua
một thửa đất từ năm 2011 với số tiền là 132.000.000đồng, mỗi gia đình
66.000.000đồng. Sau đó vì cha mẹ và con cái nên ông bà thống nhất để vợ chồng
chị P, anh T1 đứng tên sổ đất, sau này có điều kiện thì tách sổ chia đôi cho ông bà
½ thửa đất và vợ chồng P – T1 ½ thửa đất. Việc thỏa thuận mua chung thửa đất và
đứng tên sổ đỏ ông bà có làm giấy thỏa thuận viết tay và có ban quản lý thôn xác
nhận. Thửa đất hiện đã được cấp sổ đứng tên vợ chồng P – T1 số vào sổ cấp GCN:
CH 00271, thửa số 01 cấp ngày 15/10/2011, đất tại thôn S, xã P, huyện B, tỉnh Bình
Phước. Trên đất hiện nay có 01 căn nhà của ông bà và 01 căn nhà của vợ chồng P –
T1. Sau khi được cấp sổ đất thì vợ chồng P – T1 có thế chấp sổ tại Ngân hàng tới
năm 2023 đã tất toán khoản nợ ngân hàng và ông bà đã yêu cầu vợ chồng P – T1
làm thủ tục tách thửa cho ông bà, tuy nhiên do vợ chồng P – T1 đã ly hôn nên phía
anh T1 luôn gây khó khăn không làm thủ tục tách thửa cho vợ chồng bà
Vì vậy, hiện nay ông bà yêu cầu Tòa án công nhận thửa đất mà ông bà và vợ
chồng P – T1 mua chung là tài sản chung của 4 người và yêu cầu Tòa án buộc anh
T1 và chị P làm thủ tục tách sổ cho vợ chồng ông bà ½ thửa đất như các bên đã thỏa
thuận.
Ngày 26/02/2024 nguyên đơn có đơn khởi kiện bổ sung, nội dung: Vào
20/7/2022 ông bà có cho vợ chồng anh T1 và chị P vay số tiền 250.000.000 đồng để
anh T1, chị P trả tiền gốc vay ngân hàng. Khi vay hai bên có làm hợp đồng thỏa
thuận hẹn 2 năm sau anh T1 và chị P sẽ trả. Tuy nhiên hiện nay anh T1 và chị P đã
ly hôn. Vì vậy đề nghị anh T1 và chị P có trách nhiệm thanh toán khoản vay trước
thời hạn.
Ngày 19/03/2025 nguyên đơn có đơn xin rút yêu cầu khởi kiện liên quan đến
tranh chấp tài sản chung.
Bị đơn chị Nguyễn Thị Phương trình B: Nguyên đơn có cho anh Nguyễn Bá T1 và
chị vay tiền để trả nợ ngân hàng, lúc vay anh T1 không biết, vì không liên hệ được
với anh T1. Nội dung cụ thể như sau: Tháng 8 năm 2022 là hạn trả nợ nhưng ngân
hàng S báo trước từ tháng 7/2022 phải trả ngân hàng, lý do ngân hàng nói tháng 8
không đảo sổ ngân hàng được, vì vậy bên anh T1 chị không liên hệ được để thỏa
thuận trả ngân hàng trước hạn nên chị có đi vay nóng ở bên ngoài, sau khi tất toán
ngân hàng xong thì Ngân hàng không cho chị vay lại với lý do anh T1 bị nợ xấu bên
ngân hàng VIP, nên ngân hàng S không cho vay nữa. Vì vậy, chị P phải vay của bố
mẹ số tiền 250.000.000đ để trả khoản tiền vay nóng bên ngoài để trả cho Ngân hàng
trước đó. Khi vay của bố mẹ không làm giấy tờ gì.
3
Bị đơn anh Nguyễn Bá T1 trình bày: Trước đây vợ chồng anh có vay tiền ngân
hàng S số tiền 250.000.000đ là đúng, thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất, sau đó
vợ chồng tôi đã trả nợ ngân hàng trước thời hạn và không còn nợ ngân hàng nữa,
nguồn tiền để trả là tiền của vợ chồng có sẵn ở nhà, chúng Tôi không vay tiền của
nguyên đơn, nguyên đơn khởi kiện tôi không đồng ý.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2025/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2025 của
Toà án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước (nay là Tòa án nhân dân khu vực
12 – tỉnh Đồng Nai) quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H1, bà Trương
Thị L, buộc anh Nguyễn Bá T1 và chị Nguyễn Thị P liên đới trả cho ông Nguyễn
Văn H1, bà Trương Thị L số tiền vay 250.000.000đ, cụ thể anh Nguyễn Bá T1 trả
số tiền 125.000.000đ và chị Nguyễn Thị P trả số tiền 125.000.000đ.
- Đình chỉ xét xử yêu cầu chia tài chung của nguyên đơn, đương sự có quyền
khởi kiện lại theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, bản án còn tuyên xử về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ thi hành án
và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 13/5/2025 bị đơn ông Nguyễn Bá T1 có đơn kháng
cáo đối với việc buộc ông liên đới trả cùng bà P số tiền 250.000.000đ yêu cầu tòa án
cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuyên sửa bản
án sơ thẩm số 20/2025/DSST ngày 28/4/2025.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị sửa Bản án sơ thẩm theo
hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án ,
- Đại diện viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án
Thẩm phán, Hội đồng xét xử cũng như các đương sự đã tuân thủ đầy đủ và thực hiện
đúng với quy định của pháp luật.
- Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 308
của BLTTDS không chấp nhận kháng cáo của bị đơn; giữ nguyên Bản án dân sự sơ
thẩm số 20/2025/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2025 của Toà án nhân dân huyện Bù
Đăng, tỉnh Bình Phước (nay là Tòa án nhân dân khu vực 12 – Đồng Nai).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
4
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn thực hiện trong thời hạn luật
định; đơn kháng cáo có nội dung và hình thức phù hợp với quy định tại các Điều
271, 272 và 273 của BLTTDS, nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Xét đơn kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Bá T1, Hội đồng
xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Anh Nguyễn Bá T1 và chị Nguyễn Thị P chung sống với nhau từ năm 2005, có
đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện B, quá trình vợ chồng chung sống gặp nhiều
mâu thuẫn nên anh chị đã được TAND huyện Bù Đăng giải quyết ly hôn tại bản án
số 93/2023/HNGĐ-ST ngày 19/9/2023.
Qúa trình giải quyết tại cấp sơ thẩm cả hai anh chị đều thừa nhận năm 2020 vợ
chồng có vay của Ngân hàng S số tiền 250.000.000 đồng. Anh T1 thừa nhận đây là
khoản nợ chung của vợ chồng. Đến tháng 7/2022 khi đang trong thời gian sống ly
thân chờ Tòa án giải quyết việc ly hôn thì chị P đã trả ngân hàng trước thời hạn 1
tháng lý do sợ bị nợ xấu không vay lại được. Nguồn tiền để thanh toán cho Ngân
hàng từ số tiền vay của bà L và ông H1 (cha mẹ ruột của chị P), chị P cũng thừa
nhận khi vay tiền của ông H1, bà L không có mặt của ông T1.
Phía anh T1 cho rằng khoản tiền trả vào ngân hàng là tiền của gia đình hai anh
chị tích góp, nên anh không đồng ý cùng với chị P trả khoản nợ 250.000.000 đồng
cho ông Nguyễn Văn H1, bà Trương Thị L nhưng anh không cung cấp được chứng
cứ để chứng minh lời trình bày của mình, đồng thời bà P cũng thừa nhận vay tiền là
để trả khoản nợ chung của hai vợ chồng tại thời điểm chưa ly hôn. Mặc dù, khoản
tiền 250.000.000 đồng do một mình bà P đứng ra vay, nhưng thời điểm vay số tiền
trên trong thời kỳ hôn nhân và được sử dụng để thanh toán khoản nợ chung vợ chồng
đã vay của ngân hàng N xác định nghĩa vụ thanh toán thuộc về ông T1 – bà P theo
quy định tại Điều 27 và Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Mặc dù hiện nay ông T1 và bà P đã ly hôn, nhưng nghĩa vụ trả nợ phát sinh
trong thời kỳ hôn nhân vẫn là nghĩa vụ liên đới, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc Tòa
án đã phân chia nghĩa vụ riêng rõ ràng.
Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có
căn cứ đúng theo quy định của pháp luật. Nên kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Bá
T1 không được Hội đồng xét xử chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm số
20/2025/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2025 của Toà án nhân dân huyện Bù Đăng,
tỉnh Bình Phước (nay là Tòa án nhân dân khu vực 12 – tỉnh Đồng Nai).
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Bá T1
không được chấp nhận nên anh T1 phải chịu theo quy định của pháp luật.
5
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa
là có căn cứ nên được chấp nhận.
[5] Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Bá T1, giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2025/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2025 của Toà án
nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước (nay là Tòa án nhân dân khu vực 12 –
tỉnh Đồng Nai).
Căn cứ Điều 26; điểm a, khoản 1 Điều 35; các điều 147, 266, 273 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015; Căn cứ các điều 158, 166 của Bộ luật dân sự năm 2015; Căn
cứ các điều 100, 166, 167 Luật đất năm 2013,
Nghị quyết 326/2016/NQ-UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án,
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H1, bà
Trương Thị L, buộc anh Nguyễn Bá T1 và chị Nguyễn Thị P liên đới trả cho ông
Nguyễn Văn H1, bà Trương Thị L số tiền vay 250.000.000 (Hai trăm năm mười
triệu) đồng, cụ thể anh Nguyễn Bá T1 có nghĩa vụ trả số tiền 125.000.000 (Một trăm
hai mươi lăm triệu) đồng và chị Nguyễn Thị P có nghĩa vụ trả số tiền 125.000.000
(Một trăm hai mươi lăm triệu) đồng.
2. Đình chỉ xét xử yêu cầu chia tài chung của nguyên đơn, các đương sự có
quyền khởi kiện lại theo quy định pháp luật.
3. Chi phí tố tụng khác: Chi phí đo đạc nguyên đơn đã nộp, do nguyên đơn rút
yêu cầu khởi kiện nên nguyên đơn chịu.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn anh Nguyễn Bá T1 phải chịu số tiền án phí
là 6.250.000 (Sáu triệu hai trăm năm mươi ngàn) đồng, chị Nguyễn Thị P phải chịu
số tiền án phí là 6.250.000 (Sáu triệu hai trăm năm mươi ngàn) đồng.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Đăng trả lại cho ông Nguyễn Văn H1,
bà Trương Thị L, số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.650.000 (Một triệu sáu trăm năm
mươi ngàn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0009110 ngày 03/04/2024
và số tiền 6.250.000 (Sáu triệu hai trăm năm mươi ngàn) đồng theo Biên lai thu tiền
tạm ứng án phí số 0009109 ngày 03/04/2024.
6
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu
thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên
phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản
2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh Nguyễn Bá T1 phải chịu 300.000 (Ba trăm
ngàn) đồng được trừ vào 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng đã nộp tại biên lai thu tiền
tạm ứng án phí số 0009788 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng ngày
14/5/2025. (nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 12 – Đồng Nai)
Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai;
- Tòa án nhân dân khu vực 12 - Đồng Nai;
- Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, TT, Tổ HCTP, Tòa DS. (17)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
( đã ký)
Nguyễn Thị Nga
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 865/2025/DS-PT ngày 05/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm