Bản án số 95/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vận chuyển

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 95/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 95/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vận chuyển
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vận chuyển
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Sóc Trăng
Số hiệu: 95/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty CP G yêu cầu ông Nguyễn Văn L bồi thường từ việc thực hiện hợp đồng vận chuyển tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 95/2025/DS-PT
Ngày: 27/3/2025
V/v tranh chấp Hợp đồng vận
chuyển tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Thanh Vũ.
Các Thẩm phán: Ông Thái Rết;
Ông Phạm Quang Nhuận.
- Thư phiên tòa: Cao Thị Mỹ Nhiên - Thư viên Tòa án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh c Trăng tham gia phiên tòa:
Ông Trương Minh Diền - Kiểm sát viên.
Ngày 27/3/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ số 282/2024/TLPT-DS ngày 12/12/2024, về việc
“Tranh chấp Hợp đồng vận chuyển tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 55/2024/DS-ST ngày 13/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 82/2025/QĐ-PT ngày
12/02/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần G; Địa chỉ trụ schính: Tòa nhà VTV, số
H, đường P, phường M, quận N, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Quốc H; Sinh ngày:
02/4/2001; Địa chỉ đăng ký thường trú: Số A, đường số I, phường L, thành phố
T, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ liên lạc: Số B, đường C, Phường A, quận T,
Thành phố Hồ Chí Minh; là người đại diện theo ủy quyền, theo Giấy ủy quyền
lập ngày 20/02/2025. (có mặt)
- Bđơn: Ông Nguyễn Văn L; Sinh năm: 1993; Địa chỉ trú: Ấp N, thị
trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Văn T; Sinh năm: 1968;
Địa chỉ trú: Số F, đường B, Khu dân cư I, phường A, quận N, thành phố Cần
Thơ. (vắng mặt)
2
- Người kháng cáo: Công ty Cổ phần G nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo Đơn khởi kiện các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn Công ty Cổ phần G trình bày như sau:
Công ty Cổ phần G hoạt động trong lĩnh vực bưu chính, được Bộ T3 cấp
Giấy phép bưu chính số 346/GP-BTTTT lần đầu vào ngày 04/4/2017, cấp điều
chỉnh lần 2 vào ngày 23/8/2019. Công ty Cổ phần G cung cấp dịch vụ giao hàng,
thu tiền hộ từ người nhận sau khi giao hàng thành công và quyết toán cho người
gửi.
Ngày 29/12/2021, Công ty Cổ phần G giao kết hợp đồng với ông Nguyễn
Văn L vận chuyển 29 kiện hàng bên trong chứa 269 đơn hàng (do Công ty
nhận từ khách hàng (shop) chuyển đến người nhận) từ Bến tàu T (Địa chỉ:
Đường C, ấp C, thị trấn T, huyện T, tỉnh c Trăng) đến Cảng B (Địa chỉ: Thị
trấn C, huyện C, tỉnh Rịa - Vũng Tàu). Hai bên không kết hợp đồng
bằng văn bản. Ông L đã nhận đủ 29 kiện hàng xác nhận qua tín nhắn cho
nhân viên của Công ty Cổ phần G.
Ngày 02/01/2022, ông L thông báo cho Công ty Cổ phần G là 29 kiện hàng
vận chuyển trên tàu CT 90299 TS từ ngày 29/12/2021 bị sự cố chìm tàu trên
biển toàn bộ 29 kiện hàng bị mất. Đến ngày 04/01/2022, ng ty Cổ phần G
cử đại diện là Liễu Thị Xuân N đến làm việc với ông L, ông L thông báo
tàu Thu Hồng CT 90299 TS đã bị chìm tại kinh độ 0903500, vĩ độ 10623200 và
toàn bộ hàng hóa bị mất (theo biên bản m việc ngày 04/01/2022). Đến ngày
11/01/2022, Công ty Cổ phần G tiếp tục cử đại diện ông Nguyễn Hồng S làm
việc với ông L thông o cho ông L biết danh ch 269 đơn hàng n trong
29 kiện hàng có tổng giá trị là 128.178.997 đồng và yêu cầu ông L mặt tại địa
chỉ số E đường V, phường P, quận C, thành phố Cần Thơ vào ngày 13/01/2022
để thống nhất phương án bồi thường (theo Biên bản làm việc ngày 11/01/2022).
Tuy nhiên, ông L không mặt theo lịch hẹn. Sau đó, Công ty Cổ phần G đã
tiến hành bồi thường 204 đơn ng cho khách hàng với tổng số tiền
115.792.498 đồng.
Do không nhận được sự hợp tác từ ông L, Công ty Cổ phần G đã thông báo
02 lần đến ông L để yêu cầu bồi thường thiệt hại qua văn bản số 1502/2022/TB-
GHTK ngày 15/02/2022 văn bản số 0504/2022/TB-GHTK ngày 05/4/2022.
Tuy nhiên, Công ty Cổ phần G chưa nhận được phản hồi từ phía ông L, hành vi
của ông L xâm phạm nghiêm trong đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty.
Công ty Cổ phần G yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn L bồi
thường thiệt hại tổng số tiền 115.792.498 đồng tương ứng với 204 đơn hàng
Công ty Cổ phần G đã bồi thường đã cho khách hàng và tiền lãi tính từ ngày
23/02/2022 đến ngày xét xử thẩm theo mức lãi suất 10%/năm. Tại phiên
tòa thẩm, người đại diện hợp pháp của Công ty Cổ phần G thay đổi yêu cầu
khởi kiện, chỉ yêu cầu ông Nguyễn Văn L bồi thường thiệt hại tổng số tiền
115.792.498 đồng, không yêu cầu tính tiền lãi.
3
* Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn
Văn L trình bày như sau:
Trước khi xảy ra sự việc chìm tàu, ông L nhận giao hàng cho Công ty Cổ
phần G được khoảng 01 tháng, đã giao được 4-5 chuyến hàng. Hai bên không có
làm hợp đồng bằng văn bản, mỗi hàng giao hàng thì ông L điện thoại báo tin
qua tin nhắn cho người phụ trách của Công ty đã nhận được bao nhiêu kiện
hàng. Công việc của ông L chuyển số kiện hàng của Công ty Cổ phần G từ
Cảng T qua chi nhánh của Công ty Cổ phần G C, tiền công ông L được trả
50.000 đồng/kiện hàng. Khi nào ngay chuyến tàu của ông L chạy thì ông L
trực tiếp vận chuyển, còn không ngay chuyến tàu của ông L thì ông L gửi cho
tàu quen, khi này ông L trả phí cho họ 40.000 đồng/kiện hàng. Ngày
29/12/2021, ông L nhận vận chuyển cho Công ty Cổ phần G 29 kiện hàng, lần
này ông L gửi cho tàu Thu Hồng có số hiệu CT 90299 TS vận chuyển. Đến sáng
ngày 30/12/2021, ông L nhận được tin tàu chở hàng bị chìm, hàng hóa trên
tàu và tàu đều bị chìm mất. Trong ngày 30/12/2021, tàu của ông L cùng 03 chiếc
tàu nữa phối hợp với Đ tìm kiếm trên biển, cứu được 02 người bị nạn, còn hàng
hóa trên tàu bị mất hết. Ông L báo tin cho Công ty Cổ phần G sự việc tàu bị
chìm, mất hàng hóa, đến ngày 04/01/2022 thì đại diện của Công ty đến làm việc
với ông L lập biên bản xác nhận sự việc chìm tàu. Đến ngày 11/01/2022, đại
diện của Công ty Cổ phần G đến yêu cầu ông L bồi thường thiệt hại hơn 128
triệu đồng, ông L phản hồi là sẽ trao đổi với chủ tàu.
Nay ông L không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của nguyên đơn Công ty
Cổ phần G sự việc chìm tàu ngoài ý muốn của ông L, cuộc sống hiện nay
ông L gặp khó khăn, không thể nào có tiền để bồi thường cho nguyên đơn.
* Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T trình bày như sau:
Ông T chủ tàu số hiệu CT 90299 TS. Vào ngày 30/12/2022, tàu của ông
T đi từ C T ra C gặp sóng to, gió lớn dẫn đến tàu bị chìm xuống biển, hàng
hóa trên tàu rơi xuống biển không trục vớt được, chỉ cứu được người. Đối với
hàng hóa trên tàu, ông T không biết gồm những của ai thuyền viên
người trực tiếp giao nhận. Ông T không ý kiến về việc tranh chấp giữa Công
ty Cổ phần Gông L.
* Vụ án được Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải
quyết theo trình tự sơ thẩm.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 55/2024/DS-ST ngày 13/8/2024 ca Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng quyết định:
- Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015; khoản 1 Điều 156 khoản 3 Điều 541 của Bộ luật Dân sự năm
2015; khoản 3 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
4
- Tuyên xử: Không chấp nhận toàn byêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Công ty Cổ phần G, về việc buộc bị đơn ông Nguyễn Văn L bồi thường thiệt hại
số tiền 115.792.498 đồng.
Ngoài ra, bản án thẩm còn giải quyết về án phí tuyên quyền kháng
cáo của các đương sự.
* Ngày 16/8/2024, nguyên đơn Công ty Cổ phần G kháng cáo, yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, buộc bị đơn ông Nguyễn Văn L bồi thường thiệt hại cho Công
ty Cổ phần G tổng số tiền là 115.792.498 đồng.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng như sau:
+ Trong quá trình giải quyết vụ án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử và Thư phiên tòa đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự; nguyên
đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; đối
với bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không do khi
đã được Tòa án triệu tập hợp lệ là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015.
+ Về việc giải quyết vụ án: t kháng cáo của nguyên đơn thấy rằng, Tòa
án cấp sơ thẩm chưa làmông Văn T đăng ký hoạt động kinh doanh vận
tải đường thủy hay không việc ông T không trình báo cho quan Cảng vụ
thẩm quyền m kiếm tàu bchìm, kết luận nguyên nhân tàu bị chìm vi
phạm. Đồng thời, Tòa án cấp thẩm không đưa ông Đặng Ngọc T1 ông
Đặng Ngọc Tiền E (là thuyền viên của Tàu CT 90299 TS) vào tham gia tố tụng
với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng, vi phạm khoản 4 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do
đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án
cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án, được thẩm tra c
chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, ý kiến phát biểu đề
nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, b
đơn Nguyễn Văn L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt
không do; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn T vắng mặt
không do khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ ông Văn T không
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo của nguyên đơn. Căn cứ vào Điều
5
296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xphúc thẩm thống
nhất quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo phạm vi xét xử phúc thẩm: Xét
Đơn kháng o của nguyên đơn Công ty Cổ phần G lập gửi cho Tòa án cấp
thẩm qua đường dịch vụ bưu chính vào cùng ngày 16/8/2024 hợp lệ, đúng
quy định về người kháng cáo, thời hạn kháng cáo, hình thức, nội dung kháng
cáo theo quy định của các điều 271, 272, 273 và 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn Công ty Cổ phần G theo trình tự phúc thẩm.
[3] Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét trong vụ án này, mặc
nguyên đơn Công ty Cổ phần G tchức cách pháp nhân, khởi kiện
yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng với bị đơn là ông Nguyễn Văn L
các bên đương sự giao kết thực hiện hợp đồng đều mục đích lợi nhuận
nhưng ông Nguyễn Văn L nhân không đăng kinh doanh nên Tòa án
cấp sơ thẩm xác định vụ án là tranh chấp về hợp đồng dân sự theo khoản 3 Điều
28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 căn cứ, đúng quy định của pháp
luật. Đồng thời, Tòa án cấp thẩm căn cứ quy định của Bộ luật Dân sự năm
2015 về hợp đồng vận chuyển i sản để giải quyết vụ án phù hợp quy định
của pháp luật, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Tuy
nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “tranh chấp Hợp đồng
vận chuyển hàng hóa” chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử phúc thẩm điều
chỉnh lại quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án tranh chấp vHợp đồng
vận chuyển tài sản”.
[4] Xét kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần G, về việc yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, buộc bị đơn ông Nguyễn Văn L bồi thường thiệt hại cho Cổ
phần G tổng số tiền 115.792.498 đồng: Trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn và bị đơn thừa nhận giữa Công ty Cổ phần G và ông Nguyễn Văn L
giao kết hợp đồng vận chuyển tài sản bằng lời nói, theo đó ông L vận chuyển
tài sản bằng đường biển cho Công ty Cổ phần G từ Cảng T (huyện T, tỉnh
Sóc Trăng) qua chi nhánh của Công ty Cổ phần G tại huyện C, tỉnh Rịa -
Vũng Tàu, tiền công 50.000 đồng/01 kiện hàng. Vào ngày 29/12/2021, ông L
tiếp nhận của Công ty Cổ phần G 29 kiện hàng tại Cảng cá T để vận chuyển qua
huyện C. Sau đó, ông L đã gửi tàu Thu Hồng số hiệu CT 90299 TS do ông
Văn T làm chthực hiện vận chuyển 29 kiện hàng cho Công ty Cổ phần G qua
huyện C. Tối ngày 29/12/2021, tàu Thu Hồng xuất bến đi huyện C, trên đường
đi tàu gặp sóng to, gió lớn bị chìm, tàu toàn bộ hàng hóa trên tàu bị mất, lực
lượng cứu hộ chỉ cứu được 02 thuyền viên trên tàu. Sau khi tàu bị chìm, đại diện
của Công ty Cổ phần Gông L gặp nhau xác nhận 29 kiện hàng bị mất có 269
đơn hàng và có tổng giá trị là 128.178.997 đồng.
[5] Theo Công ty Cổ phần G xác định, trong tổng số 269 đơn hàng trong 29
kiện hàng bị mất thì khách hàng của 204 đơn hàng yêu cầu bồi thường Công
ty Cổ phần G đã thực hiện bồi thường cho khách hàng với tổng số tiền
6
115.792.498 đồng nên Công ty Cổ phần G yêu cầu ông L bồi thường tổng số
tiền 115.729.498 đồng. Phía ông L không đồng ý bồi thường cho nguyên đơn
29 kiện hàng bị mất là do sự cố chìm tàu và ngoài ý muốn của ông L.
[6] Tại Công văn số 265/ĐTB-PCMT&TP ngày 15/5/2023 của Đồn Biên
phòng Đ về việc trả lời yêu cầu xác minh Tàu CT 90299 TS Công văn số
160/ĐBP-TMHC ngày 20/3/2024 của Đồn Biên phòng Đ xác định: Tàu CT
90299 TS của ông Văn T làm chủ phương tiện; tên tàu Thu Hồng; nghề
hoạt động là tải; thời gian xuất bến lúc 21 giờ ngày 29/12/2021 (có đăng
Trạm Kiểm soát Biên phòng T4), không tìm thấy dữ liệu nhập bến; lúc 13 giờ 30
phút ngày 01/01/2022, Đồn Biên phòng Đ có tiếp nhận 02 thuyền viên từ tàu BL
91368 (ông Đặng Ngọc T1-thuyền trưởng và ông Đặng Ngọc Tiền E) làm việc
trên tàu CT 90299 TS đi tCảng T ra C (cách Cảng T 29 hải lý) gặp sóng
to, gió lớn bị chìm.
[7] Căn cứ vào lời thừa nhận của các bên đương sự và thông tin cung cấp từ
Đồn Biên phòng Đ thì nguyên nhân dẫn đến Tàu CT 90299 TS bị chìm vào đêm
29/12/2021 rạng sáng 30/12/2021 khi đi từ Cảng T ra C (cách Cảng T 29
hải lý) do gặp sóng to, gió lớn trước khi xuất bến đi C, Tàu CT 90299 TS
có đăng ký tại Trạm Kiểm soát Biên phòng T5
[8] Theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật Dân sự năm 2015: “…Sự kiện
bất khả kháng sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước
được không thể khắc phục được mặc đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết
và khả năng cho phép”.
[9] Như vậy, Tàu CT 90299 TS bị chìm dẫn đến mất tàu mất hết hàng
hóa, trong đó có 29 kiện hàng hóa của Công ty Cổ phần G được ông L nhận vận
chuyển ra C là do bất khả kháng, ông L không thể lường trước được. Đồng thời,
giữa Công ty Cổ phần G ông L khi thỏa thuận vận chuyển hàng hóa từ Trần
Đề ra C cũng không thỏa thuận cụ thể về phương tiện vận chuyển và ông L cũng
đã nhiều lần thực hiện vận chuyển hàng hóa cho Công ty Cổ phần G bằng
phương thức này nhưng phía Công ty Cổ phần G cũng không ý kiến phản
đối.
[10] Theo Điều 541 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng vận chuyển tài sản như sau: “1. Bên vận
chuyển phải bồi thường thiệt hại cho bên thuê vận chuyển nếu để tài sản bị mất
hoặc hư hỏng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 536 của Bộ luật này; 2.
Bên thuê vận chuyển phải bồi thường thiệt hại cho bên vận chuyển và người thứ
ba vthiệt hại do tài sản vận chuyển tính chất nguy hiểm, độc hại không
biện pháp đóng gói, bảo đảm an toàn trong quá trình vận chuyển; 3. Trường
hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất, hỏng hoặc bị hủy hoại
trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, trừ trường hợp thỏa thuận khác hoặc pháp luật quy định
khác”.
[11] Xét giữa Công ty Cổ phần G ông L không thỏa thuận khác liên
quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng dẫn
7
đến tài sản vận chuyển bị mất. Do đó, việc Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định sự
cố Tàu CT 90299 TS bị chìm vào đêm 29/12/2021 rạng sáng 30/12/2021 dẫn
đến mất tài sản ông L nhận vận chuyển cho Công ty Cổ phần G từ huyện T
ra huyện C 29 kiện hàng hóa với 269 đơn hàng tổng giá trị 128.178.997
đồng do nguyên nhân bất khả kháng căn cứ, đúng quy định của pháp
luật. Đồng thời, Hội đồng xét xử thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn ng ty Cổ phần G, về việc buộc ông Nguyễn Văn L bồi
thường thiệt hại tổng số tiền 115.792.498 đồng là phù hợp với quy định tại
khoản 1, khoản 3 Điều 541 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[12] Trong vụ án này, nguyên đơn Công ty Cổ phần G khởi kiện yêu cầu b
đơn ông Nguyễn Văn L bồi thường thiệt hại từ hợp đồng vận chuyển tài sản,
không ln quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của 02 thuyền viên u Thu Hồng CT
90299 TS là ông Đặng Ngọc T1 Đặng Ngọc T2 Em nên không cần thiết phải
đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trước khi xuất bến vào tối ngày 29/12/2021, thuyền trưởng Tàu Thu Hồng đã
làm thủ tục đăng tại Trạm Kiểm soát Biên phòng T4 được phép xuất bến
nên được xem là đủ điều kiện xuất bến. Ngoài ra, việc ông Lê Văn T không trình
báo quan Cảng vụ thẩm quyền kết luận nguyên nhân tàu bchìm sai
sót từ phía ông T nhưng nay không thể khắc phục được vì nguyên đơn, bị đơn
không thể bắt buộc ông T thực hiện thủ tục này. Do đó, việc hủy bản án sơ thẩm,
chuyển hồ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục
thẩm như đnghị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng không cần
thiết.
[13] Từ những nhận định trên, căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đề nghị của
đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn Công ty Cổ phần G, giữ nguyên phần quyết định bản án sơ thẩm.
[14] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 148 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lphí Tòa
án. Do Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án thẩm nên nguyên đơn
Công ty Cổ phần G phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 và khoản 6 Điều 313 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lphí Tòa
án.
8
* Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần G. Giữ
nguyên phần Quyết định của Bản án dân sự thẩm số 55/2024/DS-ST ngày
13/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
* Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn Công ty Cổ phần G chịu án phí
dân sự phúc thẩm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ
vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn
đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí a án số 0007059 ngày
28/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Sóc Trăng.
* Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sóc Trăng (01 bản);
- TAND huyện T (02 bản);
- Chi cục THADS huyện T (01 bản);
- Các đương sự (03 bản);
- Lưu: VP, HS (05 bản).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thanh Vũ
Tải về
Bản án số 95/2025/DS-PT Bản án số 95/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 95/2025/DS-PT Bản án số 95/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất