Bản án số 16/2025/KDTM-PT ngày 23/09/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp hợp đồng tín dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 16/2025/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 16/2025/KDTM-PT ngày 23/09/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hải Phòng
Số hiệu: 16/2025/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/09/2025
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: không chấp nhận kháng cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 16/2025/KDTM-PT
Ngày 23-9-2025
V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng,
hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng
đặt cọc; tuyên bố hiệu hợp đồng u
quyền, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất hợp đồng thế
chấp tài sản; yêu cầu trả lại nhà đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thanh Bình
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Quang Kiên
Ông Nguyễn Xuân Trường
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn n Hấn Tký Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng: Đinh Thị
Thanh Huế - Kiểmt viên.
Ngày 23 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 14/2025/TLPT-KDTM ngày 10 tháng 7
năm 2025 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng
đặt cọc; tuyên bố hiệu hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và hợp đồng thế chấp tài sản; yêu cầu trả lại nhà đất.
Do Bản án kinh doanh, thương mại thẩm số 11/2023/KDTM-ST ngày 25
tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, T2 Hải Dương bị
kháng cáo Quyết định giám đốc thẩm số 07/2025/KDTM-GĐT ngày 06 tháng 6
năm 2025 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 23/2025/QĐ-PT ngày 20
tháng 8 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2025/-PT ngày 09 tháng 9
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: N1 ng Thương mi C phn A (tên N1 hàng TMCP
Xăng du Petrolimex); địa chỉ: Tầng 4, 5, 6 Tòa nhà T, ô đất P-D17 Khu đô thị C,
phường C, thành phố Nội (địa chỉ cũ: Tầng 16, 23, 24 Tòa nhà M, số 229 TS,
phường N, quận Đ, thành phố Hà Nội).
Người đi din theo y quyn ca nguyên đơn:
Bà Nguyn Th n D – Giám đc N1 hàng TMCP A – Chi nhánh Hi Dương.
Có mt
Ông Nguyn Văn K Qun lý cao cp khách hàng doanh nghip ca N1 hàng
TMCP A. Có mt
Ông Kiu Duy T – Chuyên viên x lý n ca N1 ng TMCP A. Có mt
(Theo Quyết đnh s 203/2025/-CTHĐQT ngày 05/5/205 ca Ch tch
HĐQT Quyết đnh s 158/2025/UQ-GĐCNHD ngày 05/9/2025 ca Giám đc chi
nhánh Hi Dương).
- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại Dịch
vụ T1 thông L; địa chỉ: Số 112 phố AL, phường BH, thành phố Hải ơng, T2 Hải
Dương (nay là số 112 phố AL, phường , thành phố Hải Phòng).
Người đi din theo pháp lut ca Công ty TNHH MTV Thương mại dịch
vụ T1 thông L: Bà Nguyễn ThH (Chức vụ: Giám đốc công ty); mặt
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Thị H và ông Nghiêm Xuân D1; nơi trú: Số 112 phố AL,
phường BH, thành phố Hải Dương, T2 Hải Dương (nay là s112 phố AL, phường
, thành phố Hải Phòng); Cùng có mặt
2. Bà Trn Th H; i trú: Số 99 CD, phường T, thành phố Hải Dương, T2
Hải Dương (nay là s 99 CD, phường T, thành phố Hải Phòng); mặt
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông D1, H Hạnh: Ông
Nguyễn Trọng Q - Luật Văn phòng luật A, thuộc đoàn luật sư T2 Hải Dương
(nay là thành phố Hải Phòng); mặt
3. Ông Trn Văn T1 Th T2; nơi cư trú: S 10/229 YK, khu 6,
phưng HT, thành ph Hi Dương, T2 Hi Dương(nay là số 10/229 YK, khu 6,
phường TH, thành phố Hải Phòng); ng có mt
Người đi din theo u quyn ca bà T2 ông T1: Ông Nguyn Văn Q; nơi
trú: S 36a V, phưng T, thành ph Hi Dương, T2 Hi Dương (nay số 36a V,
phường TH, thành phố Hải Phòng) (theo giấy Ủy quyền ngày 04/11/2022); mặt
4. Phạm Thị N1; i trú: Số 28 TN, phường HT, thành phố Hải Dương,
T2 Hải Dương (nay là số 28 TN, phường TH, thành phố Hải Phòng); Có mt
5. Văn phòng Công chứng Bùi Văn H (trước đây Văn phòng Công chứng BF
thành phố Hải Dương); địa chỉ: Số 201 TH, phường NC, Thành phố Hải Dương, T2
Hải Dương (nay là số 201 TH, phường HD, thành phố Hải Phòng); Vng mt
2
6. Phòng Công chứng số 01 tnh Hải Dương (nay là Phòng công chứng số 01
thành phố Hải Phòng); địa chỉ: Số 93 BF, phường TH, thành phHải Dương, tnh Hải
Dương(nay là số 93 BF, phường HD, thành phố Hải Phòng); Vng mt
Người kháng cáo:
- Thị T2 - người quyền lợi, nghĩa vliên quan.
- Phạm Thị N1 - người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*Theo đơn khởi kiện lời khai của người đại diện nguyên đơn trình bày:
Ngày 26/11/2012, ngân ng TMCP Xăng du P (viết tắt P) - chi nhánh Hải
Dương Công ty TNHH MTV Thương mại Dịch vụ truyn thông L (viết tắt là
Công ty L) ký Hp đồng hạn mức tín dụng ngắn hạn số 444/HĐHM/NH-
PN/PGBHD-12. Theo đó, P cho Công ty L vay 2.500.000.000đ; thời hạn vay là 12
tháng kể từ ngày 26/11/2012.
Để bảo nghĩa vụ trả nợ cho Công ty L, P nhận thế chấp 02 tài sản quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền trên đất của:
Bà Nguyễn Thị Q tại số 112 phố AL, khu 2, phường BH, thành phố Hải
Dương theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất của
người thứ ba số 074/HĐTC/PG Bank-11 ngày 23/9/2011. Hợp đồng thế chấp trên
công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm;
Bà Nguyễn Thị H, ông Nghiêm Xuân D1 tại 59, tờ bản đ QH, địa chỉ
số10/229 YK, khu dân cư (KDC) 191, khu 6, phường HT, thành phố Hải Dương theo
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất để bảo đảm việc
thực hiện nghĩa vụ của người khác số 82/HĐTC/PGBHD-12 ngày 23/11/2012. Hợp
đồng thế chấp trên có công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm.
Thực hiện hợp đồng tín dụng, P đã giải N1 đủ số tiền 2,5 tỷ đồng cho Công ty
L theo Giấy nhận nợ số 01 ngày 26/11/2012 628.000.000đ Giấy nhận nợ số 02
ngày 21/01/2013 1.872.000.000đ. Ngày 04/4/2013, Công ty L đã trả tiền gốc
628.000.000đ theo giấy nhận nợ số 01 và 1.244.000.000đ theo giấy nhận nợ số 02, đã
trả được lãi trong hạn 49.991.478đ. Do Công ty L đã trả được một phần nợ gốc và đề
nghị rút tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số 074 nên tháng 4/2013, P đã trả lại
giấy tờ nhà đất đứng tên bà Nguyễn Thị Quý và giải chấp đối với tài sản này. Khi hết
thời hạn trả nợ theo giấy nhận nợ số 02 ngày 21/5/2013, Công ty L không trả gốc
lãi của số tiền còn lại. P đã yêu cầu Công ty L thanh toán nhiều lần nhưng chưa
thực hiện.
Tại thời điểm làm thủ tục cho vay hợp đồng thế chấp số
82/HĐTC/PGBHD-12, P không nhận được thông tin tài sản bảo đảm đang tranh
3
chấp, bị ngăn chặn giao dịch. Ngày 19/10/2012, đại diện của P người thế chấp i
sản đều mặt tại nhà đất thế chấp để tiến hành thủ tục thẩm định i sản. T2
ông T1 đang nhờ nhà đất KDC 191 của vợ chồng bà H, ông D1. Ông T1, bà T2
không ý kiến mcửa cho cán bộ N1 hàng vợ chồng H đến thẩm định tài
sản. Tài liệu chứng minh o o thẩm định tại sản bảo đảm lập ngày 19/10/2012;
biên bản định giá tài sản ngày 23/11/2012 và các bản ảnh chụp tài sản khi thẩm định,
trong ảnh T2 nhà (đang trong bếp). Hiện vợ chồng T2 đang quản lý, sử
dụng tài sản thế chấp.
Do Công ty L vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên P (nay N1 hàng TMCP Thnh
ng và Phát trin) khởi kiện yêu cầu T án giải quyết:
- Yêu cầu Công ty L thanh toán cho P số tiền tạm tính đến thời điểm ngày
24/8/2023 dự nợ gốc 628 triệu đồng, lãi trong hạn là 16.938.911đ và lãi quá hạn
1.421.645.457đ. Tổng dư nợ gốc và lãi là 2.066.584.368đ. Và tiếp tục trả lãi phát sinh
theo lãi suất thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ cho đến khi thực hiện
xong nghĩa vụ.
- Nếu Công ty L không trả được nợ, P được quyền xử lý tài sản thế chấp là toàn
bộ quyền sử dụng đấtcác tài sản gắn liền với đất ở tại lô 59, tờ bản đồ QH, địa chỉ
số10/229 YK, khu dân cư (KDC) 191, khu 6, phường HT, thành phố Hải Dương theo
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất để bảo đảm việc
thực hiện nghĩa vụ của người khác số 82/HĐTC/PGBHD-12 ngày 23/11/2012.
- Yêu cầu Vũ Thị T2, ông Trần Văn T1 giao tài sản thế chấp trên cho P khi
P có yêu cầu phát mại xử lý tài sản thế chấp.
* Người đại diện của Công ty L đồng thời người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan thống trình bày: ng ty L thừa nhận có vay vốn của P để kinh doanh và có
thế chấp quyền sử dụng đất, nhà 03 tầng KDC 191, phường HT, thành phố Hải
Dương đứng tên vợ chồng H, ông D1. Trước yêu cầu khởi kiện của PG Bank
Công ty đồng ý với yêu cầu khởi kiện của PG Bank.
Trước khi hợp đồng thế chấp với P, vợ chồng H, ông D1 cán bộ N1
hàng có đến nhà đất ở KDC 191 để thẩm định tài sản. Bà T2 có mặt ở nhà, mở cửa và
mời mọi người uống nước. Bà T2, ông T1 biết không ý kiến về nđất cho
thế chấp.
Về nguồn gốc nhà đất thế chấp: H quen biết Hạnh. N1, bà T2 bạn
của nhau biết Hạnh. Do N1 và bà T2 cần vay tiền đáo hạn N1 hàng nên hỏi
vay Hạnh. Nhưng Hạnh không tiền nên Hạnh giới thiệu H cho vay.
Theo thoả thuận H cho bà N1 vay số tiền 1.450.000.000đ để đáo khoản vay liên
quan đến nhà đất của ông T1, bà T2 thế chấp N1 hàng. Để đảm bảo việc cho trả nợ
của bà N1, bà H Hạnh yêu cầu bà T2, ông T1 hợp đồng uỷ quyền cho
Hạnh với nội dung nếu không trả được nợ trong thời hạn 20 ngày thì Hạnh
4
quyền chuyển nhượng nhà đất đứng tên ông T1, bà T2 sang tên cho vợ chồng H.
Ngày 20/02/2012, T2 ông T1 ký hợp đồng uỷ quyền công chứng cho
bà Hạnh. Bà N1 và vợ chồng bà T2 đã nhận đủ số tiền 1.450.000.000đ của H và bà
Hạnh nên bà T2, ông T1, bà N1 xác nhận đã nhận đủ tiền tên vào Giấy uỷ
quyền kiêm giấy nhận tiền lập ngày 20/02/2012 do bà Hạnh viết tay. Bà Hạnh chỉ làm
hộ thủ tục giữa các bên, không được hưởng lợi. Số tiền 1.450.000.000đ là tiền của
H. Sau khi nhận số tiền vay 1.450.000.000đ, N1 vợ chồng T2 không trả
được gốc i trong thời hạn 20 ngày nên Hạnh (đại diện cho ông T1, bà T2)
chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng H theo Hợp đồng chuyển nhượng ngày
23/3/2012 tại Văn phòng Công chứng BF nthoả thuận và thông báo cho T2,
N1 biết. Ngày 26/3/2012, ông D1 và bà H đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khắc gắn liền với đất.
Giấy biên nhận ngày 28/02/2012 có nội dungN1 vay 1.350.000.000đ của bà
H không liên quan đến số tiền 1.450.000.000đ theo giấy uỷ quyền kiêm giấy nhận
tiền ngày 20/02/2012, hai khoản tiền vay khác nhau. Số tiền N1 trả 900 triệu
đồng vào ngày 13/3/2012 chuyển nhượng thửa đất của ông Thận Tách (bố
mẹ đẻ bà N1) ở khu 3, phường Thanh nh trả vào khoản nợ 1.350.000.00ngày
28/02/2012. Đến nayN1 vẫn còn nợ tiền bà H, vì bà N1 còn vay nhiều khoản khác
và trong vụ án nàyH không yêu cầu xem xét.
Các hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng hợp đồng thế chấp đều
hợp pháp. Nếu các hợp đồng này hiệu, quan hệ vay nợ giữa H và bà N1 sgiải
quyết ở vụ án khác, bà không yêu cầu trong vụ án này.
Sau khi nhà đất sang tên cho vợ chồng H, bà T2 ông T1 muốn mua lại
nhà đất nên H đồng ý chuyển nhượng lại với giá 1.450.000.000đ. Khi thoả thuận
đặt cọc chuyển nhượng ngày 24/7/2012, vợ chồng bà T2, ông Tuyền có biết tài sản bà
đang thế chấp tại N1 hàng Đông Nam Á. Vợ chồng bà T2, ông T1 đã đặt cọc cho
tổng số tiền 220.000.000đ. Hai bên có thỏa thuận khiT2 thanh toán đủ tiền chuyển
nhượng thì H rút sổ đỏ để làm thủ tục chuyển nhượng lại cho ông T1, bà T2. Do
vợ chồng T2 không trả nốt tiền nên hợp đồng không tiếp tục thực hiện. Vợ chồng
T2 vi phạm hợp đồng nên phải mất tiền cọc 220 triệu đồng.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị T2 ông Trần Văn T1
thống nhất trình bày: Nhà đất ở KDC 191, phường HT PG Bank yêu cầu xử lý có
nguồn gốc của vợ chồng T2, ông T1. Tài sản này, từ khi được cấp GCNQSDĐ
năm 2007 cho đến nay, T2 ông T1 vẫn đang quản lý, sử dụng. tin tưởng bà N1
nên năm 2011, T2 cho bà N1 mượn GCNQSDĐ để thế chấp vay tiền tại N1 hàng
VIB. Khi không có tiền trả đáo hạn N1 hàng nên bà N1 hỏi vay tiền của bà Hạnh, bà
H. Để vay được tiền cho N1, vchồng T2 sử dụng nhà đất KDC 191 để bảo
đm. Ngày 20/02/2012, vợ chồng T2, ông T1 hợp đồng ủy quyền cho bà Hạnh
5
tại nhà T2 công chứng viên của Văn phòng công chứng BF tham gia.Vợ chồng
T2 không biết N1 vay bao nhiêu tiền của Hạnh, H đến nay N1 đã
trả đủ tiền chưa.Vợ chồng T2 chưa bao giờ nhận số tiền 1.450.000.00do
Hạnh H giao theo Giấy uỷ quyền kiêm giấy nhận tiền lập ngày 20/02/2012.
Giấy uỷ quyền kiêm giấy nhận tiền này, bà T2 ông T1 không , nếu giám định đúng
là chữ ký của mình thì do bị lừa ký.
Sau khi nhà đất sang tên cho bà H, ông D1, tháng 7/2012 bà H đến nhà thông
báo nếu bà T2 muốn giữ nhà đất thì mua lại và đặt cọc.n ngày 24/7/2012 vợ chồng
T2 đồng ý mua lại nhà đất với giá 1.450.000.00viết giấy biên nhận đặt
cọc. Số tiền đặt cọc tổng 220 triệu đồng, giao làm 02 lần. Lần 1 giao 170 triệu đồng
vào ngày 24/7/2012 và lần 2 giao 50 triệu đồng vào ngày 11/8/2012, bà H, ông D1 đã
nhận số tiền này. Khi ký đặt cọc, vợ chồng T2 không biết nhà đất đang thế chấp tại
N1 hàng. Hợp đồng đặt cọc không thoả thuận thời hạn thanh toán, thời hạn thực hiện
việc ký hợp đồng chuyển nhượng ng chứng sang tên. Đến nay bà T2, ông T1 chưa
trả hết số tiền nhận chuyển nhượng với do thời gian đó vợ chồng nhận được thông
tin N1 ng yêu cầu xtài sản thế chấp N1 thông báo đã trả đủ tiền vay cho
H, bà Hạnh.
T2, ông T1 cho rằng hợp đồng uỷ quyền ngày 20/02/2012 được công
chứng tại Văn phòng Công chứng BF không hợp pháp, vì: hợp đồng ký tại nhà bà T2;
khi ký không có GCNQSD đất bản gốc giấy tờ vẫn đang do VIB quản lý; hồ
công chứng không giấy đăng kết hôn của T2, ông T1; ng chứng viên
không giải thích cthể nội dung hợp đồng mà nói uỷ quyền cho Hạnh đáo hạn
N1 hàng. Giấy uỷ quyền kiêm giấy nhận tiền lập ngày 20/02/2012 hợp đồng thuê
nhà ngày 20/02/2012 là không đúng sự thật. N1 đã trả đủ tiền vay cho bà H nên bà
Hạnh không được quyền chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng H. Khi chuyển
nhượng, sang tên nhà đất cho H ông D1 cũng như nhà đất thế chấp cho PG Bank,
T2 ông T1 không biết. Khi phát hiện, T2 đã đơn gửi các quan thẩm
quyền ngăn chặn giao dịch nhưng hợp đồng thế chấp vẫn được công chứng, tài sản
vẫn được đăng giao dịch bảo đảm tại quan thẩm quyền. Cán bộ N1 hàng
không đến thẩm định tài sản khi làm thủ tục thế chấp. Cho đến năm 2013, doH
khởi kiện đòi lại nhà đất P yêu cầu phát mại nhà đất thu hồi nợ thì vợ chồng mới
biết tài sản đang thế chấp P. Do hợp đồng uỷ quyền không hợp pháp, hiệu n
hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa Hạnh vợ chồng H, ông D1 ng như
hợp đồng thế chấp nđất giữa vợ chồng H, ông D1 với P cũng hiệu theo.
T2 yêu cầu độc lập tuyên bố hiệu hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển
nhượng, hợp đồng thế chấp nói trên; yêu cầu H, ông D1 trả lại tiền đặt cọc theo
quy định của pháp luật; yêu cầu N1 trlại nhà đất cho vợ chồng T2 do cho
6
ợn tài sản. Nếu N1 không trả được nhà đất thì trả lại bằng tiền theo quy định
của pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị N1 trình bày:
N1 với T2 bạn. Do cần vốn làm ăn nên năm 2011 N1 n
GCNQSDĐ của vợ chồng T2 KDC 191, phường HT mượn GCNQSDĐ của
bố mẹ Phạm Xuân Thận, bà Phạm Thị Tách ở khu 3, phường Thanh nh để
thế chấp vay vốn N1 hàng VIB. Đến lúc đáo hạn trả nợ N1 hàng, không có tiền
nên hỏi vay Hạnh, Hạnh đồng ý cho vay nhưng yêu cầu làm hợp đồng uỷ
quyền chuyển nhượng nhà đất công chứng. Nên vợ chồng T2 Hạnh
hợp đồng uỷ quyền ngày 20/02/2012 công chứng tại Văn phòng công chứng BF.
Sau khi hợp đồng uquyền, bà Hạnh không tiền nên giới thiệu H cho vay
với lãi suất cao 3.500đ/triệu/ngày. Do cần tiền n N1 đồng ý vay tiền của H.
Số tiền bà vay của H 1.350.000.000đ (trong đó đã tính cả lãi) và có ký giấy vay
tiền vào ngày 28/02/2012, thoả thuận trả nợ trong thời hạn 01 tháng. Bà N1 không
được nhận tiền mà bà H, Hạnh tự mang tiền tro N1 ng rút 02 tài sản thế
chấp quyền sử dụng đất của ông T1, bà T2 và b m VIB. Sau đó, bà Hạnh làm
thủ tục chuyển nhượng nhà đất của ông T1, bà T2 cho bà H, ông D1 mà bà và vợ
chồng T2 không biết. Với số tiền vay 1.350.000.000đ, N1 đã trả cho H 900
triệu đồng tiền mặt vào ngày 13/3/2012 H đã chuyển nhượng thửa đất của bố
mẹ cho người khác được số tiền 1.150.000.00(do người mua đất nói lại). Nên
số nợ 1.350.000.000đ đáo hạn N1 hàng bà N1 đã trả đủ gốc và lãi cho bà H, thậm chí
còn thừa.
Giấy uỷ quyền kiêm giấy nhận tiền lập ngày 20/2/2012 bà N1 và ông T1, bà T2
không ng không nhận stiền 1.450.000.000đ của Hạnh H giao. Bà
N1 chỉ nhận số tiền 1.350.000.000đ, đến nay đã trả đủ tiền cho H, hai bên
không còn nợ nhau.Ngoài khoản vay trên, không vay khoản nào của H. Giấy
vay tiền ngày 26/3/2012 số tiền vay 100.000.000đ, ngày 01/6/2012 số tiền vay 2,2 tỷ
đồng mà bà H nộp là không có thật.
Việc mượn GCNQSDĐ của ông T1, bà T2, vay tiền của Hạnh H, ký
hợp đồng uỷ quyền giữa các bên không liên quan đến chồng bà là ông Lê Trọng Huấn
nên một mình bà có trách nhiệm trong vụ án này.
Bà đã trả đủ tiền vay 1.350.000.000đ cho bà H nên bà Hạnh không được quyền
chuyển nhượng nhà đất của ông T1, bà T2 cho bà H, ông D1. Nay đã sang tên cho bà
H, ông D1 thì bà H, ông D1 có trách nhiệm trả lại nhà đất và sang tên lại cho ông T1,
T2. đồng ý với yêu cầu độc lập của T2 tuyên bố c hợp đồng liên quan
hiệu, trả lại nhà đất cho ông T1, bà T2, khoản tiền vay giữa N1 và bà H tự giải
quyết với nhau, không yêu cầu Toà án giải quyết.Nếu các hợp đồng hiệu lực,
cũng không phải trả nhà đất cho ông T1, bà T2 bà đã trả đủ tiền vay cho H, ông
7
D1 nên bà không đồng ý với yêu cầu của T2 đòi bà trả lại nhà đất.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị Hạnh trình bày:
Hạnh và bà N1 có quen biêt nhau, còn bà T2 bạn của bà N1. Năm 2012, bà N1 hỏi
vay tiền bà Hạnh để đáo hạn N1 hàng, số tiền vay là 1.450.000.000đ nhưngkhông
có tiền nên bà Hạnh giới thiệu bà H bạn thân của bà cho vay. Bà H đồng ý cho vay
tiền với điều kiện phải tài sản bảo đảm nên các bên thống nhất vợ chồng T2,
ông T1 hợp đồng uỷ quyền cho Hạnh ngày 20/02/2012 tại Văn phòng công
chứng BF. Ny 20/02/2012, Hạnh và bà H đã giao đủ số tiền vay 1.450.000.00
cho bà N1 vợ chồng ông T1. Bà N1 vợ chồng T2 xác nhận đã nhận đủ tiền
vay trách nhiệm trả tiền trong thời hạn 20 ngày, nếu quá thời hạn thì Hạnh
chuyển nhượng nhà đất KDC 191 cho vợ chồng H thể hiện tại Giấy uỷ quyền
kiêm giấy nhận tiền lập ngày 20/02/2012. Nội dung của Giấy này do Hạnh viết tại
nhà của bà T2 sau khi các bên thống nhất. Hết thời hạn 20 ngày, kể từ ngày giao tiền
ngày 20/02/2012, vợ chồng T2 và bà N1 kng trả đủ số tiền vay nên Hạnh
đã hợp đồng chuyển nhượng nhà đất KDC 191 cho H, ông D1. Số tiền cho
vay 1.450.000.000đ tiền của H, bà Hạnh chỉ đứng ra làm thủ tục hộ giữa các
bên. Trước các u cầu khởi kiện Hạnh đề nghị giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật.
*Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng Bùi Văn
Hản trình bày: Hợp đồng uỷ quyền giữa vợ chồng T2 Hạnh, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Hạnh với vợ chồng bà H được công chứng
tại Văn phòng công chứng BF thành phố Hải Dương (nay văn phòng công chứng
Bùi n Hản) đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Hợp đồng uỷ quyền được các
bên tại n phòng công chứng, công chứng viên không giải thích gian dối nội
dung hợp đồng, các bên tự đọc, đồng ý nội dung hợp đồng tên trước mặt công
chứng viên. Khi làm thủ tục công chứng, các bên đã xuất trình bản gốc GCNQS
đơn yêu cầu xoá đăng thế chấp có xác nhận của N1 ng VIB như hồ công
chứng mà Văn phòng công chứng đã cung cấp cho Toà án. Do vậy, yêu cầu khởi kiện
của T2 tuyên bố hợp đồng uỷ quyền hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được
công chứng tại Văn phòng công chứng Bùi Văn Hản hiệu, văn phòng công chứng
không đồng ý.
*Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng Công chứng số 01 T2 Hải
Dương trình bày: Phòng công chứng nhận được đơn đề nghị của T2 ngày
06/9/2012 nhưng nội dung đơn chỉ ngăn chặn chủ sử dụng nhà đất chuyển nhượng
bất động sản, không ngăn chặn việc thế chấp tài sản.Trong đơn nêu vợ chồng T2
vợ chồng H chỉ mới hợp đồng đặt cọc để bảo đảm thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng bất động sản.Đơn của T2 ngăn chặn giao dịch chuyển nhượng
không thuộc các trường hợp tranh chấp đất đai quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật đất
8
đai năm 2013, khoản 11 Điều 7 của Thông 33 ngày 29/9/2017 của Bộ tài nguyên
môi trường.các do trên, Phòng công chứng vẫn tiến hành thủ tục công chứng
hợp đồng thế chấp. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng được công chứng đảm bảo
đúng quy định của pháp luật. Nên yêu cầu tuyên bố hợp đồng này vô hiệu, Png
công chứng không đồng ý.
*Kết quả xác minh tại Chi nhánh Văn phòng đăng quyền sử dụng đất thành
phố Hải Dương: Việc cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà các tài sản khác gắn
liền với đất cho bà H, ông D1 đối với nhà, đất ở KDC 191 đảm bảo đúng quy định
của pháp luật.GCNQSDĐ cấp cho bà H, ông D1 được Chủ tịch UBND thành phố Hải
Dương o ngày 26/3/2012. Sau khi H, ông D1 thực hiện xong nghĩa vụ tài
chính nộp thuế thì ngày 30/3/2012 Văn phòng mới trả kết quả GCNQSDĐ cho bà H
nên không vi phạm. Đơn đề nghị ngày 06/9/2012 của T2 chỉ ngăn chặn việc
chuyển nhượng, không ngăn chặn thế chấp. i sản y được H, ông D1 thế chấp
tại PG Bank đăng giao dịch bảm đảm ngày 26/11/2012 tại Văn phòng đăng
quyền sử dụng đất thành ph Hải Dương (nay Chi nhánh Văn phòng đăng
quyền sử dụng đất thành phố Hải Dương), đến nay chưa được xoá thế chấp.
* Kết quả cung cấp của Công an thành phố Hải Dương ngày 20/02/2023: Đơn
của Thị T2 tố cáo Nguyễn Thị H nh vi chiếm đoạt thửa đất KDC 191
và số tiền 220 triệu đồng chỉ là giao dịch dân sự, không có dấu hiệu tội phạm như đơn
tố cáo.
*Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an T2 Hải ơng số
05/KL-KTHS ngày 07/7/2023: Chữ Trần Văn T1 trong Giấy uỷ quyền kiêm giấy
nhận tiền ngày 20/02/2012 và hợp đồng thuê nngày 20/02/2012 so với các mẫu so
sánh đều một người. Chữ ký Thị T2 trong Giấy uỷ quyền kiêm giấy nhận tiền
ngày 20/02/2012 hợp đồng thuê nhà ngày 20/02/2012 so với c mẫu so sánh đều
một người. Chữ Phạm Thị N1 trong Giấy uỷ quyền kiêm giấy nhận tiền ngày
20/02/2012 so với các mẫu so sánh đều là một người.
* Tại Bản án thẩm số 11/2023/KDTM-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án nhân
dân thành phHải Dương, T2 Hải ơng căn cứ các quy định của pháp luật quyết
định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn P;
- Buộc Công ty L nghĩa vụ thanh toán cho P số tiền tạm tính đến hết ngày
xét x(ngày 25/9/2023): Nợ gốc 628.000.000đ, nợ lãi trong hạn là 16.938.911đ và
nợ lãi quá hạn 1.433.786.791đ. Tổng dư nợ gốc và lãi là 2.078.725.701đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 26/9/2023) cho đến khi thi
hành án xong, Công ty L còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giấy nhận
nợ.
9
- Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật , Công ty L không thực hiện thanh
toán toàn bộ số tiền gốc, lãi đối với các khoản vay nêu trên, P quyền yêu cầu
quan Thi hành án dân sự thẩm quyền tiến hành xử tài sản thế chấp làquyền sử
dụng đất tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất lô số 59, tờ bản đồ QH, địa chỉ
KDC 191, khu 6, phường HT, thành phHải Dương, diện tích 81m
2
được UBND
thành phố Hải Dương cấp GCNQSDĐ mang tên ông D1, bà H ngày 26/3/2012, theo
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất để bảo đảm việc
thực hiện nghĩa vụ của người khác số 82/HĐTC/PGBHD-12 ngày 23/11/2012.
Toàn bộ số tiền thu được từ việc xử tài sản bảo đảm sau khi trừ đi c chi
phí hợp cho việc xử tài sản thế chấp được dùng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ
của Công ty L. Số tiền thu được từ phát mại tài sản bảo đảm không đủ thanh toán hết
khoản nợ thì Công ty Lvẫn phải nghĩa vụ trả hết khoản ncho PG Bank, số tiền
còn thừa sẽ được trả lại cho ông D1, bà H.
T2 và ông T1 trách nhiệm giao tài sản thế chấp nói trên cho P khicó yêu
cầu xử lý tài sản thế chấp.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bàThị T2 tuyên bố vô hiệu các hợp
đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp đồng thế chấp.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của Thị T2 về đòi Phạm Thị
N1 trả lại nhà đất.
Buộc bà Phạm Thị N1 có trách nhiệm trả choVũ Thị T2 ông Trần Văn T1
số tiền 1.450.000.000đ đồng.
4. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà Vũ Thị T2 về đòi tiền cọc.
Tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 24/7/2012 (Giấy biên nhận đặt cọc) giữa
Nguyễn Thị H, ông Nghiêm Xuân D1 với bà Vũ ThT2, ông Trần Văn T1 hiệu.
Buộc bà Nguyễn Thị H, ông Nghiêm Xuân D1 trả cho Thị T2, ông Trần
Văn T1 số tiền 220.000.000đ đồng đặt cọc.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bà T2, ông T1 có đơn yêu cầu thi hành
án, ông D1, bà H N1 không thi hành số tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền
chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được
xác định theo khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về nghĩa vụ chịu án phí, chi phí giám định
quyền kháng cáo của các đương sự.
- Ngày 04/10/2023, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà T2) kháng cáo
bản án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu của
T2.
- Ngày 05/10/2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (N1) kháng cáo
không đồng ý trả tiền cho ông T1, bà T2.
10
* Tại Bản án phúc thẩm số 01/2024/KDTM-PT ngày 30/5/2024 của Tòa án
nhân dân T2 Hải Dương căn cứ các quy định của pháp luật quyết định:
1. Chấp nhận u cầu khởi kiện của N1 hàng PG Bank. Chấp nhận một phần yêu
cầu độc lập của bà T2.
2. Tuyên bố hiệu hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất.
3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Vũ Thị T2 đề nghị tuyên bố vô hiệu
hợp đồng thế chấp, yêu cầu bà Phạm Thị N1 trả lại nhà đất.
4. Trường hợp Công ty L thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho N1 hàng PG
banktheo hợp đồng tín dụng số 444 ngày 26/11/2012, N1 hàng giải chấp tài sản thế
chấp đứng tên bà H ông D1 tại địa chỉKDC 191(nay là số 10/229 YK), khu 6, phường
HT, thành phố Hải Dương, T2 Hải Dương thì bà T2 ông T1 được quyền sử dụng, sở
hữu nhà và đất; bà T2 ông T1 được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền cấp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc điều
chỉnh lại giấy chứng nhận theo quy định.
Trường hợp Công ty L không thực hiện thanh toán toàn bộ số tiền gốc , lãi đối
với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng số 444 ngày 26/11/2012, PG Bank có
quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền tiến hành xử lý tài sản thế
chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 59, tờ bản
đồ QH, địa chỉ KDC 191, khu 6, phường HT, thành phố Hải Dương, diện tích 81m2
được UBND thành phố Hải Dương cấp GCNQSDĐ mang tên ông Nghiêm Xuân D1,
Nguyễn Thị H ngày 26/3/2012, theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tài
sản gắn liền với đất để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác số
82/HĐTC/PGBHD-12 ngày 23/11/2012. Toàn bộ số tiền thu được từ việc xử tài
sản bảo đảm sau khi trừ đi các chi phí hợp cho việc xử tài sản thế chấp được
dùng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của Công ty L. Số tiền thu được từ phát mại tài
sản bảo đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì Công ty L vẫn phải có nghĩa vụ trả
hết khoản nợ cho P, số tiền còn thừa sẽ được trả lại cho ông D1, bà H. Ông D1 H
trách nhiệm trả cho T2 ông T1 quyền sdụng và nhà trị giá bằng tiền
2.720.433.000 đồng.
5.T2 ông T1 có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho H ông D1 là
635.216.500 đồng.
Kể từ ngàyT2 ông T1, ông D1 bà H có đơn yêu cầu thi hành án, bên có nghĩa
vụ không thi hành số tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trảtương ứng với
thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo khoản 2
Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
6. Xác nhận Phạm Thị N1 vay nợ Nguyễn Thị H số tiền 1.450.000.000
đồng.Buộc Phạm Thị N1 có trách nhiệm trả cho H stiềnVũ Thị T2 và ông
Trần Văn T1 số tiền là 3.160.721.918 đồng (trong đó nợ gốc 1.450.000.000 đồng, nợ
lãi 1.710.721.918 đồng). Ktừ ngày 31/5/2024 cho đến khi thi hành án xong, N1
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tạikhoản 2 Điều 468 của Bộ luật n sự năm 2015.
11
7. Tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 24/7/2012 (Giấy biên nhận đặt cọc) giữa
Nguyễn Thị H, ông Nghiêm Xuân D1 với Thị T2, ông Trần n T1 hiệu.
Buộc bà Nguyễn Thị H ông Nghiêm Xuân D1 trả cho bà Vũ Thị T2 ông Trần Văn T1
số tiền 220.000.000đ.
Kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi
hành án xong, n phải thi nh án còn phải chịu khoản tiền i của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí.
* Ngày 21/5/2025, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Hà Nội kháng nghị Bản án
phúc thẩm.
* Tại Quyết định giám đốc thẩm số 07/2025/KDTM-GĐT ngày 06/6/2025 của
TAND cấp cao tại Hà Nội căn cứ các quy định của pháp luật quyết định:
1. Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số
04/QĐKNGĐT-VC1-KDTM ngày 21/5/2025 của Viện trưởng VKSND cấp cao tại
Hà Nội.
2. Hủy một phần Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số
01/2024/KDTM-PT ngày 30/5/2024 của TAND T2 Hải Dương về vụ án; cụ thể
hủy các quyết định của bản án phúc thẩm về việc:
- Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà T2; tuyên bố vô hiệu hợp đồng uỷ
quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Trường hợp Công ty L thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho N1 hàng theo hợp
đồng tín dụng số 444 ngày 26/11/2012, N1 hàng giải chấp tài sản thế chấp đứng n
H, ông D1 tại địa chỉ KDC 191(nay số 10/229 YK), khu 6, phường HT, thành
phố Hải Dương, T2 Hải Dương thì bà T2, ông T1 được quyền sử dụng, sở hữu nhà và
đất; T2, ông T1 được quyền liên hệ quan thẩm quyền cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc điều chỉnh lại
giấy chứng nhận theo quy định.
- Ông D1, H có trách nhiệm trả cho bà T2, ông T1 quyền sử dụng và nhà ở trị
giá bằng tiền là 2.720.433.000 đồng.
- T2, ông T1 có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bà H, ông D1 là
635.216.500 đồng. Kể từ ngày T2, ông T1, ông D1, bà H có đơn yêu cầu thi hành
án, bên có nghĩa vụ không thi hành số tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả
tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định
theo khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
- Xác nhận N1 vay nợ H số tiền 1.450.000.000 đồng.Buộc N1 trách
nhiệm trả cho H số tiền số tiền 3.160.721.918đ. Kể từ ngày 31/5/2024 cho đến
khi thi hành án xong, bà N1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 24/7/2012 (Giấy biên nhận đặt cọc) giữa
H, ông D1 với bà T2, ông T1 hiệu. Buộc H, ông D1 trcho T2m ông T1 số
12
tiền 220.000.000đ. Kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án
cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật Dân sự năm 2015.
- Hủy các quyết định của bản án phúc thẩm về phần án phí kinh doanh thương
mại thẩm, án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm đẻ xác định lại theo quy định
của pháp luật.
3. Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân T2 Hải ơng để giải quyết lại theo
thủ tục phúc thẩm đúng quy định của pháp luật
* Tại phiên tòa phúc thẩm lần 2:
- Người đại diện của T2 và bà T2 thống nhất trình bày: Ginguyên nội
dung kháng cáo đnghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của T2.
T2 thừa nhận cho N1 mượn GCNQSDĐ để thế chấp N1 hàng và có hợp
đồng ủy quyền cho Hạnh để N1 vay tiền Hạnh, H. Nhưng vchồng bà
T2, ông T1 không nhận số tiền 1.450.000.00 của Hạnh, H theo Giấy ủy
quyền kiêm giấy nhận tiền ngày 20/02/2012. Vợ chồng T2, vchồng H có ký
Giấy biên nhận đặt cọc ngày 24/7/2012. Vợ chồng bà T2 đã đưa cho vợ chồng H
tổng số tiền 220 triệu đồng. Tuy nhiên, việc đưa số tiền 220 triệu đồng chỉ để cho
H, ông D1 giữ lại tài sản của vợ chồng bà để không bị phát mại. Ngoài ra, H
ông D1 n phải trả lãi trên số tiền 220 triệu đồng cho ông T1, bà T2.
- Người kháng cáo bà N1 trình bày: Bà N1 có mượn GCNQSDĐ của vợ chồng
T2 để vay vốn N1 hàng. Vì không trả được nợ đúng hạn cho N1 hàng nên bà N1
đã hỏi vay tiền Hạnh. Hạnh yêu cầu T2, ông T1 phải giấy ủy quyền cho
bà Hạnh được quyền chuyển nhượng nhà đất nếu không trả đúng hạn thì mới cho vay.
Sau khi các bên giấy ủy quyền thì Hạnh, bà H đã trực tiếp đến N1 hàng trả nợ
lấy GCNQSDĐ của T2 GCN của bố mẹ N1. N1 vợ chồng T2
không nhận số tiền 1.450.000.000đ của bà Hạnh, bà H theo Giấyy quyền kiêm giấy
nhận tiền ngày 20/02/2012. Bà N1 chỉ vay bà H số tiền 1.350.000.000đ. Bà N1 đã trả
cho bà H 900 triệu đồng và bà H đã chuyển nhượng nhà, đất của bố mẹ N1 cho
người khác n bà N1 không còn nợ H. Do đã trả hết nợ cho H nên bà H, ông
D1 phải trả lại GCNQSDĐ cho bà T2.
- Người đại diện của nguyên đơn trình bày: N1 hàng không đồng ý với nội
dung kháng cáo của bà T2 đề nghị Tòa án không chấp nhận kháng cáo của T2.
Việc lập kết hợp đồng thế chấp tài sản với vợ chồng ông D1, bà H đúng quy
định của pháp luật, tài sản nhà đất đứng tên ông D1, bà H. N1 hàng và ông D1, bà
H xem xét thẩm định tài sản trước khi hợp đồng thế chấp, thời điểm xem xét
thẩm định mặt T2 đó và bà T2 không ý kiến . N1 hàng không thbiết
hoặc buộc phải biết việc vay nợ giữa các bên.
13
- Người bảo vquyền lợi ích hợp pháp ông D1, bà H Hạnh thống
nhất trình bày: H, Hạnh đã giao cho N1, ông T1 và bà T2 số tiền 1,45 tỷ
đồng được thể hiện tại Giấy ủy quyền kiêm giấy nhận tiền ngày 20/02/2012. Bà T2,
ông T1 có ủy quyền cho bà Hạnh định đoạt nhà đất nếu trong trường hợp N1
không trả tiền cho H trong thời hạn 20 ngày. Bà N1 không trả được tiền nên
Hạnh đã chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng ông D1, bà H. Việc chuyển nhượng
nhà đất giữa Hạnh với vợ chồng H, ông D1 đúng theo sthỏa thuận của các
bên. Ngày 26/3/2012, ông D1, bà H đã được cấp GCNQSDĐ. Do bà T2, ông T1
nhu cầu nhận chuyển nhượng nhà đất nên các bên cũng đã ký Giấy biên nhận đặt cọc
ngày 24/7/2012. Ông D1, bà H đã nhận cọc của ông T1, bà T2 số tiền 220 triệu đồng
nhưng sau đó T2 và ông T1 không thực hiện theo thỏa thuận. Tuy nhiên, trong
trường hợp Tòa án tuyên ông D1,H trả lại cho T2, ông T1 số tiền đã nhận cọc
220 triệu đồng thì ông D1, bà H cũng đồng ý nhưng không đồng ý với việc trả i
ông T1, bà T2 bên lỗi. Tại phiên a, N1 trình bày chỉ vay H số tiền
1.350.000.00không đúng mâu thuẫn với các lời khai của N1 trong quá
trình giải quyết vụ án trước đó.
Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Từ khi thụ đến
trước khi tuyên án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư các đương sự đã chấp
hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX không chấp nhận
kháng cáo của bà T2, bà N1 và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân
dân, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1]. Xét việc vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, đại diện theo pháp luật của
nguyên đơn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 vắng mặt
nhưng người đại diện tham gia phiên tòa. Căn cứ Điều 228 khoản 3 Điều 296
Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành t xử vụ án.
- Về nội dung:
[2] Nhà và đất tại thửa 59, tờ bản đồ số QH; địa chsố 10/229 YK, khu dân
191, phường HT, thành phHải Dương, T2 Hải Dương (nay số 10/229 YK,
phường TH, thành phố Hải Phòng) nguồn gốc của ông T1, bà T2 được UBND
thành phHải ơng cấp GCN năm 2007. Năm 2011, bà T2 cho bà N1 mượn GCN
để thế chấp bảo đảm cho khoản vay của N1 tại N1 hàng VIB Chi nhánh Hải
Dương. Đến hạn trả nợ, N1 không tiền trả nên đã hỏi vay tiền Hạnh và
Hạnh giới thiệu H cho vay. Để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của N1, bà T2
ông T1 ký Hợp đồng ủy quyền cho bà Hạnh được quyền chuyển nhượng n, đất trên
14
trong trường hợp N1 không trả đúng hạn. Trong quá trình giải quyết vụ án, c
đương sự đều thừa nhận nội dung trên nên đây các tình tiết, sự kiện không phải
chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 BLTTDS.
[3] Xét Hợp đồng ủy quyền ngày 20/02/2012: Hợp đồng được công chứng tại
Văn phòngng chứng BF theo số công chứng 93/2012/HĐUQ; quyển số 01-
TP/CC-SCC/HĐGD. Người tham gia hợp đồng ủy quyền năng lực hành vi dân
sự; mục đích nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức hội người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ
Điều 122, 123, 127 BLDS năm 2005 thì Hợp đồng ủy quyền ngày 20/02/2012 có hiệu
lực pháp luật. Ngoài việc lập giấy ủy quyền ngày 20/02/2012 thì các bên còn xác lập
Giấy ủy quyền kiêm giấy nhận tiền Hợp đồng thuê nhà cùng ngày 20/02/2012
(Theo Kết luận giám định thì đúng chữ ký, chviết của ông T1, bà T2, bà N1).
Hơn nữa, theo nhận định [2] c đương sự thừa nhận có việc ủy quyền giữa ông T1,
T2 với bà Hạnh. Do vậy, Tòa án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu độc lập của
T2 về việc tuyên Hợp đồng ủy quyền ngày 20/02/2012 vô hiệu là có căn cứ.
[4]. Tại Giấy ủy quyền kiêm giấy nhận tiền ngày 20/02/2012 nội dung vợ
chồng ông T1, bà T2 tự nguyện ủy quyền cho N1 nhận toàn bộ số tiền của
Hạnh giao theo Hợp đồng ủy quyền ngày 20/02/2012, số tiền 1.450.000.000đ, trong
thời hạn 20 ngày sẽ hoàn trả số tiền đã nhận, nếu quá thời hạn 20 ngày Hạnh toàn
quyền chuyển nhượng đất và tài sản gắn liền với đất cho bà H, ông D1. Mặc dù bà
N1, bà T2 và ông T1 không thừa nhận ch của các ông tại Giấy ủy quyền kiêm
giấy nhận tiền, Hợp đồng thuê nhà, không nhận số tiền 1.450.000.000₫ vào ngày
20/02/2012. Tuy nhiên, Hạnh H khẳng định đã giao đủ số tiền
1.450.000.000₫ cho bà N1, ông T1, bà T2 các bên cũng đã nhận tại Giấy ủy
quyền kiêm giấy nhận tiền ngày 20/02/2012 việc này cũng phù hợp với Kết luận
giám định số 05/KL-KTHS ngày 07/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an T2
Hải Dương. Do đó, đủ sở xác định N1 đã nhận số tiền 1.450.000.000₫; vợ
chồng ông T1, bà T2 đồng ý ủy quyền cho Hạnh được quyền chuyển nhượng nhà
đất tại KDC 191 cho vợ chồng H, ông D1 nếu bà N1 không trả được nợ trong thời
hạn 20 ngày kể từ ngày 20/02/2012.
[5] Sau khi đã quá 20 ngày kể từ ngày 20/02/2012, N1, ông T1 và bà T2
không trả được khoản tiền đã nhận 1.450.000.000₫ như đã thỏa thuận nên ngày
23/3/2012, tại Văn phòng Công chứng BF, bà Hạnh ký Hợp đồng chuyển nhượng nhà
đất tại KDC 191 cho vợ chồng ông D1, bà H. Ngày 26/3/2012, UBND thành phố Hải
Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà các tài sản
khác gắn liền với đất số BI 575341 cho ông D1, bà H đối với diện ch nhà đất nhận
chuyển nhượng. Ngày 23/11/2012, ông D1 và bà H sử dụng quyền sử dụng đất này
thế chấp cho P để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ vay của Công ty L theo Hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba số
82/HĐTC/PGBHD-12 tại Phòng Công chứng số 1 T2 Hải Dương và đã đăng giao
dịch bảo đảm theo quy định. Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng ngày 23/3/2012
Hợp thế chấp ngày 23/11/2012 đủ điều kiện hiệu lực pháp luật theo quy định
của pháp luật (Điều 122, 123, 124, 715 BLDS năm 2005; Điều 4, 10, 12 Nghị định số
15
163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; Điều 3, 6, 7 Nghđịnh số
83/2010/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm).
[6] Ngày 24/7/2012, vợ chồng ông T1,T2 với vợ chồng ông D1, bà H lập
GIẤY BIÊN NHẬN ĐẶT CỌC có nội dung: vợ chồng ông D1, bà H nhất trí bán lô đất
cho vợ chồng ông T1, bà T2 với giá 1.450.000.000đ. Ông D1, bà H nhận cọc
170.000.000đ của vợ chồng ông T1, bà T2. Khi nào ông T1, bà T2 thanh toán số tiền
còn lại thì các bên sẽ làm thủ tục cho ông T1, bà T2.
[7] Ngày 11/8/2012, T2 vợ chồng ông D1, bà H lập văn bản thể hiện nội
dung: Vợ chồng ông D1, bà H nhận của ông T1, bà T2 số tiền 50.000.00để thanh
toán tiếp số tiền mua nhà.
[8] Căn c [6] và [7] đủ cơ sở xác định ông T1, bà T2 đã thừa nhận nhà đất
tại thửa 59, tờ bản đồ số QH; địa chỉ số 10/229 YK, khu dân 191 thuộc quyền
sở hữu hợp pháp của vợ chồng ông D1, H đồng ý mua lại và đã đặt cọc.
[9] Trên sở nhận định [4], [5], [6], [7] và [8] xét thấy; Tòa án cấp thẩm
không chấp nhận yêu cầu độc lập của T2 về việc tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng, Hợp đồng thế chấp vô hiu là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
[10] Tại thời điểm các bên GIẤY BIÊN NHẬN ĐẶT CỌC ny 24/7/2012,
nhà đất tại KDC 191 đang thế chấp cho N1 hàng Đông Nam Á, sau khi giải chấp lại
tiếp tục thế chấp cho P. Văn bản đặt cọc không thỏa thuận về thời hạn thực hiện hợp
đồng phạt cọc. Cho đến thời điểm khởi kiện đã n 10 năm nhưng ông T1, bà T2
không thanh toán số tiền chuyển nhượng còn lại. Tòa án cấp thẩm đã chấp nhận
yêu cầu của P về việc xử tài sản thế chấp trong trường hợp Công ty L không trả
được nợ nên hợp đồng đặt cọc không thể thực hiện được. Tòa án cấp thẩm tuyên
bố Hợp đồng đặt cọc ngày 24/7/2012 (GIẤY BIÊN NHẬN ĐẶT CỌC) giữa H, ông
D1 với ông T1, bà T2 hiệu do lỗi của cả hai bên buộc H, ông D1 trả cho bà
T2, ông T1 số tiền 220.000.00 căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm lần 2, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và ông D1, bà H đồng ý nếu Tòa án quyết định việc
ông D1,H phải trả cho ông T1, bà T2 số tiền 220 triệu đồng đã nhận cọc. Người
đại diện của ông T1, bà T2 yêu cầu ông D1, bà H phải trả số tiền lãi phát sinh trên số
tiền đặt cọc. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy tại cấp thẩm ông T1, bà T2
không yêu cầu trả lãi đối với số tiền đặt cọc. Hơn nữa, Hội đồng xét xử cấp
thẩm xác định hợp đồng đặt cọc hiệu. Do vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm
không chấp nhận yêu cầu trả lãi trên số tiền cọc của ông T1, bà T2.
[11] Xét yêu cầu của T2 đòi N1 trả lại nhà đất: N1 thừa nhận năm
2011 mượn GCNQSDĐ của bà T2, ông T1 để vay tiền N1 hàng VIB. Nhưng
không khả năng trả nợ nên đã mượn tiền của Hạnh, H để trả nN1 ng.
Ngày 20/02/2012, bà T2, ông T1 uỷ quyền cho N1 nhận số tiền 1.450.000.000đ
của bà Hạnh, bà H đồng ý sử dụng nhà đất ở KDC 191 để hoàn thành nghĩa vụ trả
nợ của bà N1 cho bà H khi bà N1 không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn
hoặc không khả năng trả số tiền trên. Hơn nữa, tại GIẤY BIÊN NHẬN ĐẶT CỌC
ngày 24/7/2012, bà T2 và ông T1 đồng ý giá trị của nhà đất 1.450.000.000đ. Do
vậy, căn cứ xác định T2, ông T1 đã định đoạt nhà đất với giá
16
1.450.000.000đ. Nay, nhà đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà H, ông D1 N1
hàng được quyền xử lý bán phát mại tài sản này để thu hồi nợ nên yêu cầu của bà T2
về việc buộc N1 trả lại bằng hiện vật (nhà đất) cho T2 không được chấp nhận.
Tuy nhiên, bà N1 người mượn GCNQSDĐ của ông T1, bà T2 và là người sử dụng
số tiền vay nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộcN1 phải trả nhà, đất cho ông T1, bà
T2 bằng với số tiền 1.450.000.000đ là có cơ sở (Điều 275, khoản 3 Điều 496 BLDS).
[12] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng kháng cáo của
Thị T2, Phạm Thị N1 không có căn cứ nên Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên
quyết định bản án thẩm đối với phần quyết định giải quyết các yêu cầu của
Thị T2.
[13]. Về án phí phúc thẩm: Do Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng
cáo giữ nguyên bản án thẩm nên người kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm
theo quy định của pháp luật (Điều 148 BLTTDS).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 122, 123, 124, 715 BLDS năm 2005; Điều 275 khoản 3 Điều
496 BLDS năm 2015;
Căn cứ Điều 4, 10, 12 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phvề giao
dịch bảo đảm; Điều 3, 6, 7 Nghđịnh số 83/2010/NĐ-CP của Chính phvề đăng
giao dịch bảo đảm;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của Vũ Thị T2, bà Phạm Thị N1; gi
nguyên Bản án sơ thẩm số 11/2023/KDTM-ST ngày 25 tng 9 năm 2023 của Tòa án
nhân dân thành phHải ơng, tnh Hải Dương (nay thuộc Tòa án khu vực 8 thành
phố Hải Phòng).
1. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của Thị T2 tuyên bố hiệu các hợp
đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất hợp đồng thế chấp.
2. Chấp nhận một phần u cầu độc lập của Vũ Thị T2 về việc đòi Phạm
Thị N1 trlại nhà đất: Buộc Phạm Thị N1 trả cho Thị T2 ông Trần Văn
T1 số tiền 1.450.000.000đ (Một tỷ, bốn trăm năm mươi triệu đồng).
3. Chấp nhận một phần u cầu độc lập của Thị T2 về việc đòi tiền cọc:
Buộc bà Nguyễn Thị H, ông Nghiêm Xuân D1 trả cho bà Vũ ThT2 ông Trần Văn
17
T1 số tiền 220.000.00(Hai trăm hai mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, T2, ông T1 có đơn yêu cầu thi hành án,
ông D1, bà H và bà N1 không thi hành số tiền trên thì phải trải đối với số tiền chậm trả
tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo
khoản 2 Điều 357 khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
4. Án phí:
4.1. Án phí sơ thẩm:
- Trả lại N1 hàng Thương mi C phn A (tên cũ ngân hàng TMCP Xăng du
P) số tiền tạm ứng án phí 33.915.00 theo Bn lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số
AA/2021/0000315 ngày 27/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải
Dương, tnh Hải Dương.
- Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại Dịch vụ T1
thông L phải chịu 73.574.514đ(bẩy mươi ba triệu, lăm trăm bẩy mươi bốn nghìn, lăm
trăm mười bốn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Vũ Thị T2 phải chịu 300.000đ án phí dân sự được trừ vào số tiền 300.00
tạm ứng án phí mà T2 nộp theo biên lai thu số AA/2021/0002878 ngày 29/5/2023
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương. Hoàn trả lại cho bà T2 số tiền
5.500.000đ tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2021/0002877 ngày 29/5/2023 và
300.000đ tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2022/0000494 ngày 18/9/2023,đều
tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương; tổng số tiền được hoàn
5.800.000đ. Bà T2 phải chịu 7.000.000đ chi phí giám định tài liệu (đã thi hành xong).
- Nguyễn Thị H và ông Nghiêm Xuân D1 phải chịu 11.000.000đ(mười một
triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Phạm Thị N1 phải chịu 55.500.00(Năm mươi lăm triệu, lăm trăm nghìn
đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
4.2. Án phí phúc thẩm:
- Thị T2 phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc
thẩm. Thị T2 đã nộp đủ theo Biên lai thu tiền tạm ứng số 0000589 ngày
11/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương, T2 Hải Dương.
Trả lại cho Thị T2 số tiền 1.700.000đ (một triệu, bẩy trăm nghìn đồng) theo
Biên lai thu tiền tạm ứng số 0002711 ngày 08/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Hải Dương, T2 Hải Dương.
- Phạm Thị N1 phải chịu 300.00(ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc
thẩm. Phạm Thị N1 đã nộp đủ theo Biên lai thu tiền tạm ứng số 0000590 ny
11/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương, T2 Hải Dương.
Trả lại cho bà Phạm Thị N1 số tiền 1.700.000đ (một triệu, bẩy trăm nghìn đồng) theo
Biên lai thu tiền tạm ứng số 0002723 ngày 13/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân
18
sự thành phố Hải Dương, T2 Hải Dương (do chị Nguyễn Thị Phương Thảo nộp thay),
nhưng tạm giữ số tiền này để khấu trừ vào số tiền án phí sơ thẩm mà bà Phạm Thị N1
phải chịu.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bn án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành
án theo quy định tai các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nguyễn Quang Kiên Nguyễn Xuân Trường
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Thanh Bình
19
Tải về
Bản án số 16/2025/KDTM-PT Bản án số 16/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 16/2025/KDTM-PT Bản án số 16/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất