Bản án số 158/2024/DS-ST ngày 28/08/2024 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 158/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 158/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 158/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 158/2024/DS-ST ngày 28/08/2024 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm... |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Sóc Trăng (TAND tỉnh Sóc Trăng) |
Số hiệu: | 158/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | BA THACH S - THACH THI T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 158/2024/DS-ST
Ngày: 28-8-2024
V/v Tranh chấp đòi lại đất cho ở nhờ.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Bích Tuyền.
Các Hội Thẩm nhân dân:
Ông Huỳnh Phước
Ông Hà Văn Châu
- Thư ký phiên tòa: Bà Văn Ngọc Hân là Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng tham gia
phiên tòa: Bà Nguyễn Lê Ngọc – Kiểm sát viên.
Trong ngày 28 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố
Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số
145/2022/TLST-DS ngày 04 tháng 8 năm 2022 về tranh chấp đòi lại đất cho
ở nhờ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 361/2024/QĐXXST-DS ngày
11 tháng 7 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Thạch S, sinh năm 1957 (có mặt).
Địa chỉ: Số A đường C, khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:
- Luật sư Bạch Sĩ C (vắng mặt) Văn phòng luật sư Bạch Sĩ C thuộc
đoàn luật sư tỉnh S.
- Luật sư Bạch Sĩ B (có mặt) Văn phòng luật sư Bạch Sĩ C thuộc đoàn
luật sư tỉnh S.
Cùng địa chỉ: 1 đường N, khóm C, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng.
- Các bị đơn:
1. Bà Thạch Thị T, sinh năm: 1960 (có mặt)
2
2. Ông Sơn H, sinh năm: 1958 (có mặt)
Cùng địa chỉ: Số A đường C, khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Nguyễn
Văn N (vắng mặt) và bà Lê Thị Trúc L (có mặt). Cùng địa chỉ liên hệ Trung
tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh S: Số A đường H, phường F, thành phố S.
- Các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Sơn Thị T1, sinh năm: 1978 (có mặt).
2. Ông Sơn Đ, sinh năm: 1990 (có mặt)
3. Bà Sơn Thị H1, sinh năm: 1994 (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Số A đường C, khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng.
4. Bà Nguyễn Thị C1 (vắng mặt). Địa chỉ: Số C đường T, khóm B, phường E,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
5. Ông Huỳnh Quốc H2 (vắng mặt). Địa chỉ trước khi định cư ở nước Úc: Số
C đường T, khóm B, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
6. Ông Huỳnh S1 (vắng mặt). Địa chỉ: Số B đường T, khóm B, phường E,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
7. Bà Huỳnh Thị N1 (vắng mặt). Địa chỉ: Số C đường T, khóm B, phường E,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
8. Bà Huỳnh Thị Mai H3 (vắng mặt). Địa chỉ: Số C đường T, khóm B,
phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
9. Bà Huỳnh Thị M (vắng mặt). Địa chỉ: Số C đường T, khóm B, phường E,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
10. Ông Huỳnh Thái T2 (vắng mặt). Địa chỉ: Số C đường T, khóm B, phường
E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
11. Bà Huỳnh Thị Bích Q (vắng mặt). Địa chỉ: Số B Q, khóm B, phường G,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
12. Ông Huỳnh Minh H4 (vắng mặt). Địa chỉ: Số G đường N, khóm D,
phường A, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
13. Bà Thạch Thị Thu T3, sinh năm: 1978 (có mặt). Địa chỉ: Số B đường C,
khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng;
14. Bà Thạch Thị Thu V, sinh năm: 1980 (có mặt). Địa chỉ: Số A đường C,
khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng;
15. Ông Thạch Thanh S2, sinh năm: 1982 (có mặt). Địa chỉ: Số A đường C,
khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng;
3
16. Ông Thạch Thanh H5 (có mặt). Địa chỉ: Số A đường C, khóm E, phường
E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng;
17. Ông Thạch Thanh H6 (có mặt), sinh năm: 1986. Địa chỉ: Số A đường C,
khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
- Người làm chứng: Ông Huỳnh Chí D, sinh năm: 1968 ( vắng mặt, có đơn
xin vắng mặt).
Địa chỉ: Số A đường C, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
- Người phiên dịch: Ông Thạch Phú T4 – Trưởng ban N2, phường E, thành
phố S, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện đề ngày 13/7/2022 quá trình giải quyết vụ án cũng
như tại phiên tòa nguyên đơn ông Thạch S trình bày:
Nguồn gốc phần diện tích đất thuộc thửa đất số 281 (theo đơn khởi kiện ghi
thửa 139 do ban đầu khởi kiện ông không biết chính xác, qua đo đạc thực tế
thì phần đất này thuộc thửa 281), tờ bản đồ 13, toạ lạc tại khóm E, phường E,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng của gia đình ông Huỳnh M1 tạo lập và sử dụng.
Đến ngày 20/6/1991 thì gia đình ông M1 đã chuyển nhượng cho ông Thạch S
một phần trong thửa đất của ông M1 với chiều ngang là 8m dài 15 m diện tích
120m
2
với giá chuyển nhượng là 800kg lúa khô, việc mua bán có làm giấy
tay, thời điểm ông mua đất thì bà Thạch Thị K là mẹ ruột của bà T đã được
ông Huỳnh M1 cho ở nhờ trên đất này, lúc đó ba bên có giáp mặt với nhau,
ông cũng đồng ý cho bà K tiếp tục ở nhờ. Sau khi nhận chuyển nhượng thì gia
đình ông Thạch S chưa có nhu cầu sử dụng nên đã thoả thuận với bà Thạch
Thị K là mẹ ruột của bà Thạch Thị T cho bà K được sửa chữa lại nhà tiếp tục
sử dụng cho đến hết đời của bà K thì trả lại cho gia đình ông Thạch S. Khi
Nhà nước mở con hẻm ngang 03m để cho người dân đi lại thì chính gia đình
ông Thạch S đã hiến phần đất cho chính quyền địa phương làm con hẻm này,
do đó phần diện tích đất còn lại vào khoảng 75m
2
. Năm 1998 bà K được nhà
nước cho nhà tình thương, ông chưa có nhu cầu sử dụng đất nên đồng ý cho
bà K được cất nhà tình thương ở.
Năm 2016 thì bà Thạch Thị Kim c, bà T có gia đình ở riêng, sau khi bà
K chết thì bà T dọn về ở trong căn nhà của bà K, ông Thạch S đến nhận lại
nhà đất nhưng bà T không chịu giao trả lại diện tích đất cho ông Thạch S vì
bà cho rằng phần đất này được ông Huỳnh M1 cho bà K là mẹ bà T nên bà T
không trả lại cho ông Thạch S. Bà T sửa chữa nhà rồi tiếp tục sử dụng cho dù
ông Thạch S nhiều lần yêu cầu bà T phải di dời nhà của bà K đi để giao trả lại
phần diện tích đất cho ông Thạch S nhưng bà T không chịu giao. Vụ việc đã
được Ủy ban nhân dân phường E, thành phố S tiến hành hoà giải nhưng
không thành.
4
Ông chuyển nhượng đất từ năm 1991 nhưng vì ông chưa có nhu cầu sử
dụng, nên không đăng ký quyền sử dụng đất. Đến khi ông có nhu cầu sử dụng
đất muốn lấy lại để đăng ký quyền sử dụng thì gia đình bà T không đồng ý.
Nay ông Thạch S yêu cầu buộc bà Thạch Thị T và ông Sơn H cùng
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Sơn Thị T1, ông Sơn Đ, bà Sơn Thị
H1 phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, đồ đạc trong căn nhà số A đường C,
Khóm E, Phường E, thành phố S để giao trả lại cho ông Thạch S diện tích đất
theo đo đạc thực tế là 86m
2
thuộc thửa đất số 281, tờ bản đồ số 13, toạ lạc tại
khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng thửa đất có số đo và vị trí tứ
cận:
- Hướng Đông giáp phần còn lại của thửa 281, có số đo 18.75m.
- Hướng Tây giáp phần còn lại của thửa 281, có số đo 18.11m.
- Hướng Nam giáp phần còn lại của thửa 281, có số đo 4.38m.
- Hướng Bắc giáp đường C, có số đo 5.03m.
Nếu gia đình bà T không có chỗ ở nào khác thì ông yêu cầu bị đơn trả
lại cho ông giá trị đất theo kết quả định giá tài sản là 535.608.000 đồng. Ông
đồng ý với kết quả định giá tài sản của Công ty cổ phần T6.
* Tại biên bản hòa giải ngày 17/07/2023, biên bản lấy lời khai ngày
04/7/2024, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn, bà Thạch
Thị T trình bày:
Bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguồn gốc
phần đất tranh chấp diện tích là 86m
2
thuộc thửa đất số 281, tờ bản đồ số 13,
toạ lạc tại khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng gắn liền căn nhà
tại địa chỉ: Số A đường C, khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng là
của ông Huỳnh M1 cho mẹ là bà Thạch Thị K ở nhờ từ trước năm 1970. Sau
này ông M1 cho mẹ bà luôn và mẹ bà cất nhà ở từ đó cho đến nay. Gia đình
bà đã được nhà nước cấp nhà tình thương năm 2006. Năm 2016 mẹ bà chết bà
vẫn ở trên đất này ông Thạch S không nói gì, đến năm 2022 mới tranh chấp.
Vợ của ông M1 là bà Nguyễn Thị C1, địa chỉ: 3 đường T, khóm B, phường E,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng có làm văn bản xác nhận cho mẹ bà đất vào ngày
24/6/2020. Bà đồng ý với kết quả định giá tài sản của Công ty cổ phần T6.
* Bị đơn, ông Sơn H trình bày: Thống nhất với lời trình bày của bà
Thạch Thị T.
* Tại biên bản xác minh ngày 27/10/2023, ngày 08/7/2024 người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C1 trình bày:
Bà là vợ của ông Huỳnh M1, nguồn gốc phần đất tranh chấp gắn liền
căn nhà tại địa chỉ: Số A đường C, khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng là của vợ chồng bà, vợ chồng bà cho mẹ bà T là bà Thạch Thị K ở nhờ
từ năm 1975 đến nay, chỉ cho ở nhờ chứ không được sang bán, năm 2006 khi
ông Huỳnh M1 chết, thì Ủy ban nhân dân phường E, thành phố S có đến xin
5
gia đình bà hiến 03 nền nhà cho 03 hộ nghèo, trong đó có nền nhà bà T, bà
thấy họ nghèo không có chỗ ở nào khác nên bà và các con cũng đồng ý hiến
03 nền nhà trong đó có nền nhà của bà T đang ở, khi đi đo đất cho nhà tình
thương thì con bà là Huỳnh Si P và Huỳnh Thái T2 trực tiếp đo đạc. Bà không
có yêu cầu đòi lại phần đất vì đã cho gia đình bà K, bà T và ông H. Bà có
nghe ông Huỳnh M1 nói lại là có bán ông Thạch S một phần đất với giá 40
giạ lúa, phần đất đó hiện nay ông S đã cất nhà không phải phần đất gia đình
bà T đang sử dụng hiện nay.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Sơn Thị T1 trình bày
thống nhất với lời trình bày của bị đơn bà Thạch Thị T.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Sơn Đ trình bày thống
nhất với lời trình bày của bị đơn bà Thạch Thị T.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Sơn Thị H1 trình bày
thống nhất với lời trình bày của bị đơn bà Thạch Thị T.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Thạch Thị Thu T3 trình
bày thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn ông Thạch S.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Thạch Thị Thu V trình
bày thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn ông Thạch S.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Thạch Thanh S2 trình
bày thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn ông Thạch S.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Thạch Thanh H5 trình
bày thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn ông Thạch S.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Thạch Thanh H6 trình
bày thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn ông Thạch S.
- Các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Huỳnh Quốc H2,
Huỳnh SiPha, bà Huỳnh Thị N1, bà Huỳnh Thị Mai H3, bà Huỳnh Thị M,
ông Huỳnh Thái T2, bà Huỳnh Thị Bích Q, ông Huỳnh Minh H4 từ khi thụ lý
vụ án đến nay đều vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến gì.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn luật sư Bạch
Sĩ B trình bày:
Nguyên đơn có đầy đủ căn cứ pháp lý để chứng minh phần đất tranh
chấp thuộc quyền quản lý của nguyên đơn vì nguyên đơn cung cấp tờ sang
nhượng đất lập ngày 20/6/1991 có các người làm chứng là Thạch S3, T,
Huỳnh Chí D, Thạch K1 và có xác định vị trí đất về hướng tây bắc giáp với
đất Thạch S4 là ông nội của bà Đ1. Bà C1 cũng xác nhận ông M1 có bán đất
cho ông S với giá 40 giạ lúa, mẹ bà T là được bà C1, ông M1 cho ở nhờ trên
đất từ trước đến nay. Tại biên bản xác minh của Tòa án thì bà Thạch Thị Sa
Đ2 đứng tên sổ mục kê đất đai. Tại công văn số 1023 ngày 19/6/2023 của Ủy
ban nhân dân thành phố S xác định phần đất tranh chấp chưa cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và trên bản đồ địa chính chủ sử dụng đất là bà Thạch
6
Thị Sa Đ2 là vợ ông Thạch S, tại biên bản hòa giải cơ sở bị đơn bà T thừa
nhận ông Huỳnh M1 chỉ cho bà K ở nhờ đến hết đời bà K, điều này phù hợp
với thỏa thuận giữa ba bên ông Huỳnh M1, bà K và ông S, khi nào bà Kim c
thì phải trả đất lại cho ông S. Bị đơn bà Thủy cung c1 đơn hiến đất nhưng
phần cuối ghi hiến đất cho bà Thạch Thị T5 nên đơn hiến đất không có giá trị.
Từ những phân tích nêu trên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà Lê Thị Trúc L
trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp diện tích là 86m
2
thuộc thửa đất số 281,
tờ bản đồ số 13, toạ lạc tại khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng
gắn liền căn nhà tại địa chỉ: số A đường C, khóm E, phường E, thành phố S,
tỉnh Sóc Trăng là của ông Huỳnh M1 và bà Nguyễn Thị C1 cho mẹ bà T là bà
Thạch Thị K ở nhờ từ trước năm 1970, ở nhờ không được sang bán, bị đơn bà
T sinh sống trên phần đất này từ khi bà sinh ra đến nay, sau này ông M1 cho
mẹ bà T luôn và mẹ bà T cất nhà ở từ đó cho đến nay. Gia đình bà T đã được
nhà nước cấp nhà tình thương năm 2006. Năm 2016 mẹ bà T chết bà T vẫn ở
trên đất này ông Thạch S không nói gì, đến năm 2022 mới tranh chấp.
Nguyên đơn không chứng minh được có thỏa thuận 03 bên giữa ông Huỳnh
M1, bà K và ông S về việc nguyên đơn cho bà K ở nhờ, nhà nước cấp nhà
tình thương cho bị đơn năm 2006, nguyên đơn không có ý kiến phản đối bằng
văn bản gửi chính quyền địa phương, giấy tay sang nhượng đất năm 1991
không nói rõ vị trí đất, theo hồ sơ vụ án tại các biên bản xác minh xác định
ông Huỳnh M1 có rất nhiều đất, tờ sang nhượng không xác định vị trí đất nên
không có cơ sở xác định phần đất ông S mua có phải phần đất tranh chấp
không. Thời điểm ký tờ sang bán đất năm 1991 thì nhà nước cấm việc mua
bán đất đai với mọi hình thức, nên tờ sang nhượng đất có giá trị không. Trên
cơ sở phân tích đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
- Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Sóc Trăng trình bày ý kiến:
Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết
vụ án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh
chấp, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập
chứng cứ đúng theo quy định. Về thời hạn chuẩn bị xét xử được đảm bảo theo
quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống
đạt đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên Tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện
đúng các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Các đương sự thực
hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73 và Điều 234 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015.
7
Về nội dung: Sau khi phân tích đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
và qua kết quả thẩm tra các chứng cứ, tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại
phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét
đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến trình bày của các đương sự, kiểm sát viên,
Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tại phiên tòa luật sư Bạch Sĩ C, luật sư Nguyễn Văn N và các
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị C1, ông Huỳnh Quốc
H2, ông Huỳnh S1, bà Huỳnh Thị N1, bà Huỳnh Thị Mai H3, bà Huỳnh Thị
M, ông Huỳnh Thái T2, bà Huỳnh Thị Bích Q, ông Huỳnh Minh H4, bà Sơn
Thị H1, người làm chứng ông Huỳnh Chí D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai nhưng luật sư Bạch Sĩ C, luật sư Nguyễn Văn N và các người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị C1, ông Huỳnh Quốc H2,
ông Huỳnh S1, bà Huỳnh Thị N1, bà Huỳnh Thị Mai H3, bà Huỳnh Thị M,
ông Huỳnh Thái T2, bà Huỳnh Thị Bích Q, ông Huỳnh Minh H4 vắng mặt
không có lý do. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Sơn Thị H1 và
người làm chứng ông Huỳnh Chí D vắng mặt có đơn xin vắng mặt. Căn cứ
vào quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3, Điều 228, khoản 2 Điều 229 của
Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các ông, bà
có tên nêu trên.
[1.2] Xét thấy, tại đơn khởi kiện ngày 13/7/2022 nguyên đơn Thạch
Sanh yêu cầu bị đơn bà Thạch Thị T, ông Sơn H trả lại phần đất là thửa 139
và diện tích là 75m
2
tờ bản đồ 13, tọa lạc khóm E, phường E, thành phố S. Tại
phiên tòa nguyên đơn xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện xác định thửa
đất tranh chấp là thửa 281 và diện tích đất là 86m
2
tờ bản đồ 13, tọa lạc khóm
E, phường E, thành phố S theo đo đạc thực tế của Chi nhánh văn phòng đăng
ký đất đai thành phố S vì ban đầu khởi kiện ông không biết chính xác thửa đất
và diện tích cụ thể. Xét thấy, việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là phù hợp với kết quả đo đạc thực tế của Chi nhánh văn phòng
đăng ký đất đai thành phố S và không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện
ban đầu, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Về nội dung: Về nguồn gốc phần đất tranh chấp các bên đương sự
đều thống nhất về nguồn gốc phần đất tranh chấp theo đo đạc thực tế là 86m
2
,
thuộc thửa đất số 281, tờ bản đồ 13, tọa lạc khóm E, phường E, thành phố S
có căn nhà gắn liền tại số A đường C, khóm E, phường E, thành phố S chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo kết quả định giá tài sản do
Công ty cổ phần T6 giá Sao Việt phần đất có giá trị 535.608.000đồng có
nguồn gốc là của ông Huỳnh M1 tạo lập và sử dụng. Đồng thời, tại biên bản
8
xác minh đối với Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S ngày
09/8/2024, qua tra cứu sổ mục kê đất đai lập ngày 16/12/2012 thì phần đất
này hiện nay do hộ bà Thạch Thị Sa Đ2 là vợ của ông Thạch S đứng tên
người sử dụng, quản lý. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 18 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 hướng dẫn thi hành luật đất đai 2013 thì
“giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 100 luật đất
đai là sổ mục kê, sổ kiến điền lập trước ngày 18/12/1980”. Do đó, việc hộ bà
Thạch Thị Sa Đ2 đứng tên trên sổ mục kê lập ngày 16/12/2012 không phải là
căn cứ xác định là người đứng tên trên giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định
tại điểm g, khoản 1 Điều 100 luật đất đai năm 2013.
[3] Xét lời trình bày của nguyên đơn cho rằng phần đất tranh chấp là
của nguyên đơn chuyển nhượng của ông Huỳnh M1 vào ngày 20/6/1991 việc
chuyển nhượng có lập giấy viết tay, giá chuyển nhượng là 800kg lúa. Nguyên
đơn cung cấp cho Tòa án bản chính tờ sang nhượng viết tay, hội đồng xét xử
nhận thấy trong tờ giấy viết tay ngày 20/6/1991 không thể hiện thửa đất, tờ
bản đồ, vị trí đất ở đâu chỉ có nội dung “đồng ý sang nhượng phần đất thổ cư
chiều ngang 8m, chiều dài 15m về hướng tây bắc giáp với đất ông Thạch S4”.
Sau khi ký giấy viết tay nguyên đơn không nhận đất và không sử dụng đất từ
đó cho đến nay. Ngoài ra, nguyên đơn cũng không cung cấp được tài liệu
chứng chứ gì chứng minh phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp
của nguyên đơn. Đồng thời, qua đo đạc thực tế thì phần đất tranh chấp có
diện tích 86m
2
nhỏ hơn nhiều so với phần đất trong giấy viết tay. Hơn nữa, bà
Nguyễn Thị C1 là vợ ông Huỳnh M1 xác định phần đất ông Huỳnh M1 bán
cho ông Thạch S hiện nay ông Thạch S đã cất nhà ở. Mặc dù, nguyên đơn ông
Thạch S cho rằng sau khi chuyển nhượng đất từ ông Huỳnh M1 có thỏa thuận
cho bà K ở nhờ, nhưng bị đơn bà T và ông H không thừa nhận có thỏa thuận
này.
[4] Xét lời trình bày của bị đơn bà T cho rằng nguồn gốc phần đất tranh
chấp là của ông Huỳnh M1 cho mẹ bà là bà Thạch Thị K ở nhờ từ năm 1970,
sau này ông Huỳnh M1 cho mẹ bà luôn, năm 2006 gia đình bà được cấp nhà
tình thương và sử dụng ổn định từ đó cho đến nay. Đồng thời, bị đơn cung
cấp cho Tòa án bản chính đơn hiến đất do bà Nguyễn Thị C1 ngày 24/6/2020.
Xét thấy, tại biên bản xác minh ngày 27/10/2023, ngày 08/07/2024 bà Nguyễn
Thị C1 là vợ ông Huỳnh M1 trình bày, nguồn gốc phần đất gia đình bà T đang
sinh sống là của vợ chồng bà cho mẹ của bà T là bà K ở nhờ từ năm 1975, chỉ
cho ở nhờ không được sang bán, đến năm 2006, Ủy ban nhân dân phường E,
thành phố S đến gặp bà xin gia đình bà hiến 03 nền nhà cho 03 hộ nghèo,
trong đó có nhà của bà T, bà đồng ý cho gia đình bà T, ông Sơn H và bà K,
phần đất để cất nhà tình thương. Tại biên bản xác minh đối với Ủy ban nhân
dân phường E, thành phố S ngày 26/6/2024 được ông Lý Hồng L1 là Phó chủ
tịch Ủy ban nhân dân phường E, thành phố S cung cấp thông tin “căn nhà của
bà T và ông H đang sinh sống tại số A đường C, khóm E, phường E, thành
phố S là nhà tình thương do Ủy ban nhân dân phường E cấp, điều kiện cấp
9
nhà tình thương thì người sử dụng đất ổn định, có giấy tờ chủ quyền, còn nếu
ở nhờ thì chủ đất gốc phải có xác nhận cho ở ổn định thì mới được cho nhà
tình thương”. Tại biên bản xác minh ngày 27/6/2024 đối với ông Trần H7 bí
thư chi bộ khóm E, phường E, thành phố S, ông Trần H7 là trưởng ban N3,
phường E, thành phố S từ năm 1989 đến năm 2023 ông H7 cung cấp thông tin
“căn nhà hiện nay bà T và ông H đang ở là của cha, mẹ bà T là ông Thạch A
và bà K ở từ trước năm 1975 cho đến nay, là nhà tình thương do Nhà nước
cấp năm 2006, về nguồn gốc đất là của ông Huỳnh M1, ông Huỳnh Min h cho
Ủy ban nhân dân phường E. Theo quy định hộ nghèo muốn được cho nhà tình
thương thì phải có đất sử dụng ổn định hoặc có ý kiến của chủ đất gốc đồng ý
cho cất nhà tình thương thì mới được cất”.
[5] Xét thấy, ông S từ khi ký tờ sang nhượng đất ngày 20/6/1991 đến
nay không trực tiếp quản lý sử dụng đất, ông S cũng không cung cấp được tài
liệu chứng cứ chứng minh ông S có quyền sử dụng hợp pháp đối với phần đất
tranh chấp, ông S cho rằng cho bà K ở nhờ nhưng các bị đơn không thừa nhận
ở nhờ trên đất ông S. Đồng thời, khi Nhà nước cấp nhà tình thương cho gia
đình bị đơn thì ông S cũng không có ý kiến phản đối gì. Như đã phân tích ở
mục số [4] lời trình bày của bị đơn về nguồn gốc đất phù hợp với lời trình bày
của bà C1 là vợ ông Huỳnh M1, phù hợp với ý kiến của đại diện Ủy ban nhân
dân phường E, thành phố S, ý kiến của ông Trần H7 là trưởng ban nhân khóm
E, phường E, thành phố S từ năm 1989 đến năm 2023. Do đó, việc nguyên
đơn khởi kiện yêu cầu các bị đơn bà Thạch Thị T, ông Sơn H, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Sơn Thị T1, ông Sơn Đ, bà Sơn Thị H1 phải có
trách nhiệm di dời nhà cửa, đồ đạc để giao trả lại phần đất tranh chấp là
không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[6] Như đã phân tích nêu trên lời đề nghị của Kiểm sát viên và lời đề
nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn về nội dung vụ
án là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Lời đề nghị của luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn về nội dung vụ án là không
có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
ông Thạch S không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí. Nhưng
ông Thạch S là người cao tuổi thuộc trường hợp miễn án phí theo quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Do đó ông Thạch S được miễn nộp
tiền án phí sơ thẩm.
[8] Về chi phí tố tụng (thẩm định và định giá): Nguyên đơn ông Thạch
S phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
10
Căn cứ vào Khoản 9 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228,
Khoản 2 Điều 229, Khoản 1 Điều 244, Khoản 1 Điều 273, Khoản 1 Điều 280
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Khoản 3 Điều
26, Khoản 1 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Căn cứ khoản 2 Điều 203 của luật đất đai năm 2013.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Thạch S về
việc yêu cầu buộc các bị đơn bà Thạch Thị T, ông Sơn H, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Sơn Thị T1, ông Sơn Đ, bà Sơn Thị H1 phải có trách
nhiệm di dời nhà cửa, đồ đạc để giao trả lại cho ông Thạch S diện tích đất
theo đo đạc thực tế là 86m
2
thuộc thửa đất số 281, tờ bản đồ số 13, toạ lạc tại
khóm E, phường E, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng thửa đất có số đo và vị trí tứ
cận như sau:
- Hướng Đông giáp phần còn lại của thửa 281, có số đo 18.75m.
- Hướng Tây giáp phần còn lại của thửa 281, có số đo 18.11m.
- Hướng Nam giáp phần còn lại của thửa 281, có số đo 4.38m.
- Hướng Bắc giáp đường C, có số đo 5.03m.
Tài sản gắn liền trên đất: Nhà trệt số A đường C, Khóm E, phường E,
thành phố S;
Nhà trước: Diện tích 27m
2
; kết cấu nền đất, vách tường cao 02m + gỗ
lá, mái lợp tôn; khung cột bê tông cốt thép đúc sẵn
Nhà sau: Diện tích 26,6m
2
, kết cấu nhà bê tông xi măng, khung cột bê
tông đúc sẵn + gỗ, vách lá, mái lợp lá
(Có sơ đồ kèm theo)
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Thạch S phải chịu án phí số
tiền 300.000 đồng. Nhưng ông Thạch S là người cao tuổi thuộc trường hợp
miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà
án. Do đó ông Thạch S được miễn nộp tiền án phí sơ thẩm.
3. Về chi phí tố tụng (thẩm định và định giá): Số tiền là 11.950.000
đồng (mười một triệu chín trăm năm mươi ngàn đồng) nguyên đơn ông Thạch
S phải chịu, số tiền này ông Thạch S đã tạm ứng trước và đã chi xong.
4. Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi
11
tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận
được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án
dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ
sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSNDTP Sóc Trăng;
- Chi cục THADS TP Sóc Trăng;
- TAND tỉnh Sóc Trăng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Thị Bích Tuyền
12
Tải về
Bản án số 158/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 158/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 28/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 28/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm