Bản án số 153/2025/DS-PT ngày 12/08/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 153/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 153/2025/DS-PT ngày 12/08/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 153/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 153/2025/DS-PT
Ngày: 12-8-2025
V/v: Tranh chấp Hợp đồng vay
tài sản.
NHÂN DAN
HNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Lê Phương
Các Thẩm phán: Ông Lê Minh Tuấn và ông Nguyễn Anh Dũng
- Thư phiên tòa: Trần ThHuyền Anh - Tký Toà án của a án
nhân dân tỉnh Lâm Đồng
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Linh - Kiểm sát viên
Ngày 12 tháng 8 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng cơ sở
1 xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 89/2024/TLPT-DS ngày 12 tháng 6
năm 2024 về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản”, do Bản án dân sự sơ thẩm
số 09/2024/DS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2024 của Tán nhân dân huyện nh
Linh, tỉnh Bình Thuận Nay Toà án nhân dân khu vực 16 - Lâm Đồng, tỉnh
Lâm Đồng bkháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
279/2024/QĐ-PT ngày 11 tháng 12 m 2024, Thông báo về việc mở lại phiên
tòa số 429/TB-TA ngày 21/7/2025 Thông báo vviệc thay đổi thời gian mở
phiên tòa s472/TB-TA ngày 12/8/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Huỳnh Công L, sinh m 1974; nơi cư trú: Số A, đường
N, khu phố E, thị trấn V, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận (Nay Đ, tỉnh Lâm Đồng).
(Có mặt)
2. Bị đơn: Ông Văn T, sinh m 1968; Huỳnh Thị T1, sinh năm 1971;
cùng nơi cư trú: Số A, đường Đ, xóm B, thôn E, xã H, huyện T, tỉnh Bình Thuận
(Nay làĐ, tỉnh Lâm Đồng). (Có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1 Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1972; nơi cư trú: Số A đường N, khu phE,
thị trấn V, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận (Nay là xã Đ, tỉnh Lâm Đồng). (Vắng mặt)
Ngưi đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Công L (nguyên đơn)
3.2 Ông Nguyễn Đức T2, sinh năm 1967 và bà Huỳnh Thị H, sinh m 1975;
nơi cư trú: Số D, đường T, tổ C, khu phố C, thị trấn V, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận
(Nay làĐ, tỉnh Lâm Đồng). (Vắng mặt)
Người kháng cáo: Bị đơn ông Võ Văn T; bà Huỳnh Thị T1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo hồ sơ án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nguyên đơn, ông Huỳnh Công L trình bày: Ông Huỳnh Công L
Nguyễn Thị Y vchồng; bđơn Huỳnh Thị T1 ch ruột của ông L;
Huỳnh Thị T1, ông Văn T là v chồng; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Huỳnh Thị H, ông Nguyễn Đức T2 là vợ, chồng; bà H cháu họ của nguyên
đơn ông L.
Vào m 2011 đầu tháng 03/2012, vợ chồng ông L, Y đã cho vợ chồng
bà T1, ông T vay tiền và đến nay bà T1, ông T chưa trả tiền vay cho ông L, bà Y.
Cụ thể những lần vay tài sản như sau:
Lần 01: Ngày 13/04/2011 (nhằm ngày 11/03/2011 âm lịch), cho vay số tiền
160.000.000đồng.
Lần 02: Ngày 15/04/2011 (nhằm ngày 13/03/2011 âm lịch), cho vay số tiền
100.000.000đồng.
Lần 03: Ngày 22/04/2011 cho vay số tiền 100.000.000đồng.
Lần 04: Ngày 19/06/2011 (nhằm ngày 18/05/2011 âm lịch), cho vay số tiền
120.000.000đồng.
Lần 05: Ngày 18/08/2011 (nhằm ngày 19/07/2011 âm lịch), cho vay số tiền
200.000.000đồng.
Lần 06: Ngày 22/03/2012 (nhằm ngày 01/03/2012 âm lịch), cho vay số tiền
200.000.000đồng.
Tổng cộng ông L, Y cho ông T, T1 vay 880.000.000đng. Trong 06
lần vay tài sản nêu trên hai bên đều thỏa thuận mức lãi suất 4%/tháng, không
thỏa thuận thời hạn vay. Việc vay tài sản này thì ông T, bà T1 đều viết giấy ghi
nhận, chính là giấy ông L đã cung cấp trong hồvụ án; tất cả chữ viết, chữ
trong giấy vay tiền này đều là chữ của ông T, bà T1, ông T có tên thường gọi
là T3 nên ông T ký tên Trọng”. Trong một số nội dung vay tiền, bà T1, ông T tự
ghi nội dung trả lãi vào tháng 12/2011 âm lịch chứ thực tế hai bên không thỏa
3
thuận thời hạn trả lãi. Tất cả những lần vay tài sản nêu trên đều có cả ông T,
T1 tham gia.
Sau khi vay tài sản, v chồng ông T, bà T1 không trả tiền lãi, cũng không trả
tin vay gốc cho ông L, bà Y. Đến tháng 12/2011 âm lịch, ông L, bà Y thiếu vốn
đầu tư làm ăn nên yêu cầu ông T, bà T1 trả tiền vay. Thời điểm đó ông T, bà T1
không có tiền trả nên hai bên thỏa thuận thống nhất: Ông L, bà Y đi vay tiền của
người khác, sau đó ông T, bà T1 có nghĩa vụ trả tiền lãi + tiền vay gốc cho ông L,
Y để ông L, Y trả cho người cho vay. Thực hiện thỏa thuận này, vợ chồng
ông L, bà Y đã nhiều lần vay của vợ chồng bà Huỳnh Thị H, ông Nguyễn Đức T2
cụ thể như sau:
Lần 01: Ngày 04/01/2012 (nhằm ngày 11/12/2011 âm lịch), vay số tiền
160.000.000đồng.
Lần 02: Ngày 06/01/2012 (nhằm ngày 13/12/2011 âm lịch), vay số tiền
100.000.000đồng.
Lần 03: Ngày 11/01/2012 (nhằm ngày 18/12/2011 âm lịch), vay số tiền
120.000.000đồng.
Lần 04: Ngày 12/01/2012 (nhằm ngày 19/12/2011 âm lịch), vay số tiền
200.000.000đồng.
Lần 05: Ngày 15/01/2012 (nhằm ngày 22/12/2011 âm lịch), vay số tiền
100.000.000đồng.
Tổng cộng ông L, Y đã vay của H, ông T2 680.000.000đồng. Trong
05 lần vay tài sản nêu trên hai bên đều thỏa thuận trả lãi với mức lãi suất là
4%/tháng, không thỏa thuận thời hạn vay. Thỏa thuận nêu trên tH, ông T2
không tham gia; nhưng sau khi cho vay, bà H, ông T2 cũng biết do ông L,
bà Y vay tiền này.
Sau đó ông T, T1 không trả đủ tiền lãi, tiền vay gốc cho ông L, Y. Tính
đến ngày 21/01/2017, vợ chồng ông T, T1 chỉ trả được tổng số tiền lãi là
680.000.000đồng; cụ thc lần trả tiền lãi này như sau: Ngày 29/01/2014 trả
200.000.000đồng, ngày 16/02/2015 tr150.000.000đồng, ngày 05/02/2016 trả
20.000.000đồng, ngày 17/05/2016 tr150.000.000đồng ngày 21/01/2017 tr
160.000.000đồng. Việc tr680.000.000đồng này được thực hiện theo phương
thức ông T, bà T1 giao cho bà H do ông L, bà Y nhờ bà H đến nhà ông T, bà T1
lấy tiền lãi giùm. Từ ngày 22/01/2017, vchồng T1, ông T không trả thêm tiền
lãi, cũng không trả tiền vay gốc. Do đó năm 2021 bà H, ông T2 khởi kiện đối với
ông L, Y; tại Bản án dân sự phúc thẩm số 93/2023/DS-PT ngày 01/8/2023, Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Thuận giải quyết buộc ông L, bà Y có nghĩa vụ trả cho bà
H, ông T2 tổng cộng số tiền 755.427.099đồng, trong đó gồm 381.609.500đồng
tin nợ gốc và 373.817.099đồng tiền lãi.
4
Trong quá trình trình tố tụng, ông L yêu cầu giải quyết buộc bị đơn ông
T, bà T1 phải trả cho ông L, Y 200.000.000đồng tiền vay gốc tiền lãi trên
số tiền 200.000.000đồng này tính từ ngày vay cho đến khi giải quyết xong v án,
phát sinh trong hợp đồng vay tài sản ông L, Y và ông T, T1 đã xác lập
vào ngày 22/03/2012 (nhằm ngày 01/03/2011 âm lịch). Tuy nhiên, hiện nay bên
bị đơn ông T, bà T1 không đồng ý với khoản vay 200.000.000 đồng này; hơn nữa
200.000.000đồng tiền vay này tiền lãi phát sinh từ 05 hợp đồng vay tài sản
trước và hiện nay nguyên đơn ông L đã có yêu cầu trả tiền lãi tính lại từ ngày vay.
Do đó hiện nay ông L xin thay đổi yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu Tòa án giải
quyết đối với việc trả 200.000.000đồng tiền vay ngày 22/03/2012 và tiền lãi phát
sinh trên số tiền 200.000.000đồng này. Cụ thể hiện nay ông L chỉ yêu cầu Tòa án
giải quyết c vấn đề sau: Buộc bị đơn ông T, T1 nghĩa vụ trả cho ông L,
Y 680.000.000đồng tiền vay gốc và tiền lãi trên số tiền 680.000.000đồng này
tính từ ngày vay cho đến khi giải quyết xong vụ án với mức lãi suất theo quy định
của pháp luật, phát sinh trong 05 hợp đồng vay tài sản mà ông L, bà Y và ông T,
T1 đã xác lập vào các ngày 13/04/2011, 15/04/2011, 22/04/2011, 19/06/2011
18/08/2011. Ông L, bà Y đồng ý khấu trừ 680.000.000đồng ông T, bà T1
đã giao cho bà H, ông T2 vào số tiền lãi phát sinh trong các hợp đồng vay tài sản
nêu trên theo quy định của pháp luật. Ngoài ra ông L không yêu cầu khác
trong vụ án.
2. Bị đơn ông Võ Văn T, bà Huỳnh Thị T1 trình bày:
Về mối quan hgiữa bị đơn ông T, T1 với ông Huỳnh Công L, Nguyễn
Thị Y, Huỳnh Thị H ông Nguyễn Đức T2 thì ông T, T1 trình bày n
nội dung nguyên đơn ông L đã trình bày nêu trên. Ông T có tên thường gọi là T3.
Ông T, T1 khẳng định ông T, bà T1 không vay tiền của Y, ông L
mà chỉ vay tiền của bà H, ông T2. Vào năm 2011 và ngày 01/03/2012 âm lịch, v
chồng T1, ông T nhiều lần thiếu vốn kinh doanh nên đã hỏi vay tiền của vợ
chồng Huỳnh Thị H, ông Nguyễn Đức T2. Do ông T, T1 không thân thiết
với bà H, ông T2 nên bà H, ông T2 không đồng ý cho vay mà yêu cầu ông L,
Y phải đứng ra bảo đảm thì bà H, ông T2 mới đồng ý cho vay; ông L, bà Y đồng
ý nhận bảo đảm nên các n thống nhất xác lập hợp đồng vay. Ngoài ra, do ông
T, bà T1 ở xa n 03 bên cùng thỏa thuận thống nhất: Bà H, ông T2 giao tiền vay
cho Y, rồi Y giao tiền vay này lại cho ông T, T1 ông T, T1 viết
giấy vay của bà Y, ông L. Thực hiện thỏa thuận này, ông T, bà T1 đã 04 lần vay
tài sản của bà H, ông T2 cụ thể như sau:
Lần 01: Ngày 13/04/2011 (nhằm ngày 11/03/2011 âm lịch); vay số tiền
160.000.000đồng. H giao số tiền này cho Y rồi Y giao stiền này lại
cho ông T nhận.
5
Lần 02: Ngày 15/04/2011 (nhằm ngày 13/03/2011 âm lịch); vay số tiền
100.000.000đồng; H giao tiền vay này cho Y rồi Y giao số tiền này lại
cho ông T nhận.
Lần 03: Ngày 19/06/2011 (nhằm ngày 18/05/2011 âm lịch); vay số tiền
120.000.000đồng; H giao tiền vay này cho Y rồi Y giao số tiền này lại
cho ông T nhận.
Lần 04: Ngày 18/08/2011 (nhằm ngày 19/07/2011 âm lịch); vay số tiền
200.000.000đồng; H giao tiền vay này cho Y rồi Y giao số tiền này lại
cho bà T1 nhận.
Ngoài 04 lần vay tài sản nêu trên thì vào ngày 22/04/2011, ông T, bà T1 còn
vay của bà H số tiền 100.000.000đồng; bà H giao tiền vay này cho bà T1 trực tiếp
nhận; tuy nhiên do trước đây thường viết giấy vay vào sổ theo dõi của bà Y nên
lần này ông T, bà T1 cũng viết giấy vay vào sổ theo dõi của bà Y.
Tổng cộng số tiền ông T, T1 vay của bà H, ông T2 nhận tiền vay thông
qua bà Y rồi viết giấy vay tiền của ông L, Y là 580.000.000đồng và s tiền ông
T, T1 vay của H, ông T2, nhận tiền vay tH, ông T2 rồi viết giấy vay
tin của ông L, Y 100.000.000đồng. Trong 05 lần vay tài sản nêu trên hai
bên đều thỏa thuận mức lãi suất 4%/tháng, trả tiền lãi vào tháng 12/2011 âm
lịch, không thỏa thuận thời hạn vay; đồng thời ông T, bà T1 đều có viết giấy ghi
nhận, chính là giấy mà nguyên đơn ông L đã cung cấp trong hồ sơ vụ án, tòan bộ
chữ viết, chữ trong giấy này là chữ của ông T, bà T1. Mục đích ông T, bà T1
vay tài sản là để đầu tư kinh doanh mua bán nhằm phát triển kinh tế gia đình;
Từ khi vay tài sản đến ngày 21/01/2017, vợ chồng ông T, bà T1 đã trả cho
H, ông T2 được tổng cộng 680.000.000đồng tiền vay gốc. Cụ thể các lần trả
tin này như sau: Ngày 29/01/2014 trả 200.000.000đồng, ngày 16/02/2015 trả
150.000.000đồng, ngày 05/02/2016 trả 20.000.000đồng, ngày 17/05/2016 trả
150.000.000đồng ngày 21/01/2017 trả 160.000.000đồng. Đến tháng 01/2020,
ông T, T1 tiếp tục trả cho H, ông T2 10.000.000đồng tiền lãi nhưng hiện
nay bà H không thừa nhận nên ông T, bà T1 không yêu cầu giải quyết đối với số
tin 10.000.000đồng này.
Ngoài ra, H còn tính tổng tiền lãi đến hết tháng 12/2011 âm lịch của 05
giao dịch vay tài sản nêu trên 200.000.000đồng. Do ông T, bà T1 không có tiền
trả tiền lãi và do những lần vay trước đều viết giấy vay vào sổ theo dõi của bà Y,
ông L nên ngày 01/3/2012 âm lịch (nhằm ngày 22/02/2012 ơng lịch), T1
cũng viết vào sổ theo dõi ca Y, ông L với nội dung “Tuyết T3 mượn lại
200.000.000 (Hai trăm triệu) tiền lãi” để xác nhận nợ tiền lãi; nội dung xác nhận
nợ lãi này chính nội dung ghi “1/3/2012 ALtrong giấy vay nguyên đơn
ông L đã cung cấp, toàn bộ chữ viết, chữ ký trong nội dung này là chữ của bà T1.
Đến tháng 01/2020, bà H, ông T2 T1, ông T thỏa thuận thống nhất H,
6
ông T2 không yêu cầu trả 200.000.000đồng này nữa và thống nhất xóa khoản nợ
lãi 200.000.000đồng này cho T1, ông T; việc thỏa thuận này ông T, bà T1 đã
ghi âm, lập vi bằng nộp cho Tòa án. Do đó hiện nay T1, ông T không n nợ
bà H, ông T2, cũng không có nợ bà Y, ông L 200.000.000đồng tiền lãi này.
Vào ngày 01/03/2012 âm lịch (nhằm ngày 22/03/2012 dương lịch), 03 bên
đã thỏa thuận thống nhất: Bà Y, ông L chuyển giao toàn bộ quyền yêu cầu trả nợ
vay cho H, ông T2; đồng thời tại phiên tòa và Bản án dân sự thẩm số
17/2023/DS-ST ngày 13/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình
Thuận, bà Y, ông L cũng đã trình bày thống nhất chuyển giao toàn bộ quyền yêu
cầu trả nợ vay này. Đến nay ông T, bà T1 đã trả đủ 680.000.000đồng tiền vay gốc
và đã được bà H, ông T2 thống nhất xóa nợ tiền lãi. Do đó hiện nay ông T, bà T1
không còn nợ tiền vay của bà H, ông T2 và cũng không có nợ tiền vay của ông L,
Y. vậy ông T, T1 không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn ông L. Ngoài ra, ông T, bà T1 không có yêu cầu gì trong vụ án.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị H, ông Nguyễn
Đức T2 trình bày:
Về mối quan hệ giữa bà Huỳnh Thị H, ông Nguyễn Đức T2, ông Võ Văn T,
Huỳnh Thị T1, ông Huỳnh Công L, bà Nguyễn Thị Y, thì bà H trình bày như
nội dung nguyên đơn ông L đã trình bày nêu trên.
H không tham gia cũng không biết về việc vay tài sản giữa vợ
chồng ông L, Y vchồng T1, ông T. Vào tháng 12/2011 và đầu tháng
03/2022, vợ chồng bà H, ông T2 có 06 lần cho vợ chồng ông L, bà Y vay tài sản.
Khi vay, chỉ cóY trực tiếp đến gp bà H, ông T2 đgiao kết, xác lập hợp đồng
nói mục đích vay tài sản đề đầu m ăn. Tuy nhiên, khi Y viết giấy vay
tin thì bà Y viết thường viết chú thích trong dấu ngoặc (…)” vay giùm T1;
H hỏi lý do thì bà Y trả lời là bà Y vay tiền này giùm cho bà T1, ông T; bà H
nói với Y, H chỉ thống nhất cho Y, ông L vay tiền bà Y, ông L
nghĩa vụ trả tiền vay cho H, ông T2; còn việc Y sử dụng tiền vay này cho
người khác vay lại là việc của bà Y, ông L, bà H không có liên quan. Sau khi hai
bên thỏa thuận thống nhất thì xác lập các hợp đồng vay cthể như sau:
- Lần 1: Ngày 22/04/2011 (Âm lịch), bà H cho bà Y, ông L vay số tiền gốc
100.000.000đồng.
- Lần 2: Ngày 11/12/2011 âm lịch, H cho Y, ông L vay s tiền
160.000.000đồng.
- Lần 3: Ngày 13/12/2011 âm lịch, H cho Y, ông L vay s tiền
100.000.000đồng.
- Lần 4: Ngày 18/12/2011 âm lịch, H cho Y, ông L vay s tiền
120.000.000đồng.
7
- Lần 5: Ngày 19/12/2011 âm lịch, H cho Y, ông L vay s tiền
200.000.000đồng.
- Lần 6: Ngày 01/03/2012 âm lịch, bà H tiếp tục cho bà Y, ông L vay số tiền
200.000.000đồng. Thực tế số tiền 200.000.000đồng là tiền lãi Y, ông L còn
nợ bà H, ông T2 phát sinh tnhững khoản vay khác (không phải 05 khoản vay
nêu trên), những khoản vay này đã trả đ tiền vay gốc nhưng còn nợ
200.000.000đồng tiền lãi nên đến ngày 01/03/2012 âm lịch, hai n thỏa thuận
chốt nợ, thống nhất bà Y, ông L vay của bà H 200.000.000đng tiền lãi này.
Trong 06 lần vay tài sản nêu trên, c bên thỏa thuận lãi suất 4%/tháng,
không thỏa thuận thời hạn vay. Sau khi vay tài sản, bà Y, ông L không trả tiền lãi
cũng không trả tiền vay gốc. Nhiều lần bà H, ông T2 đã trực tiếp đến yêu cầu bà
Y, ông L trả tiền vay; bà Y gọi điện thoại cho bà T1, ông T yêu cầu bà T1, ông T
đến nhà bà Y trả tiền vay cho bà Y để bà Y trả tiền vay cho bà H, ông T2 nhưng
ông T, bà T1 đều báo bận không đến. Thời điểm đó bà H mới biết là bà Y, ông L
có cho ông T, bà T1 vay tiền. Sau đó bà Y nói bà T1, ông T bận công việc không
thể đem tiền đến trả cho bà Y để bà Y trả tiền vay cho bà H; Y nhiều lần nhờ
H đến nhà bà T1, ông T lấy tiền vay cho bà Y để khấu trừ sang tiền lãi mà bà
Y vay còn nợ bà H, ông T2. Do muốn lấy được tiền vay nên H đã nhiều lần
đến nhà T1, ông T đ nhận của T1, ông T với tổng số tiền
680.000.000đồng, cụ thể: Ngày 29/01/2014 nhận 200.000.000đồng, ngày
16/02/2015 nhận 150.000.000đồng, ngày 05/02/2016 nhận 20.000.000đồng; ngày
17/05/2016 nhận 150.000.000đồng, ngày 21/01/2017 nhận 160.000.000đồng.
Tổng số tiền 680.000.000đồng này tiền i Y, ông L trả cho H, ông
T2 chứ không phải trả tiền vay gốc; còn số tiền này giữa Y, ông L ông T,
bà T1 thỏa thuận trả tiền vay gốc hay tiền lãi cho bà Y, ông L thì bà H không rõ.
Từ đó, mặc H, ông T2 đã nhiều lần yêu cầu nhưng Y, ông L không trả
thêm tiền lãi và cũng không trả tiền vay gốc. Do đó vào năm 2021, bà H, ông T2
khởi kiện đối với ông L, Y; a án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử phúc
thẩm, buộc ông L, bà T1 có nghĩa vụ trả cho H, ông T2 tổng số tiền
755.427.099đồng, gồm 381.609.500đồng tiền vay gốc và 373.817.599đồng tiền
lãi. Tuy nhiên đến nay ông L, bà Y vẫn chưa thi hành án stiền 755.427.099 đồng
này.
Bà H, ông T2 khẳng định, trong tất cả 06 lần vay tài sản nêu trên, bà H, ông
T2 chỉ giao kết, xác lập hợp đồng với Y, ông L chứ không giao kết, xác lập
hợp đồng với ông T, T1; khi giao kết xác lập hợp đồng thì chỉ Y tham
gia chứ không ông L hoặc ông T, T1 tham gia; các bên thỏa thuận H, ông
T2 cho bà Y, ông L vay tiền bà Y, ông L nghĩa vụ trả tiền vay cho H,
ông T2; 02 bên hoàn toàn không có thỏa thuận bà Y, ông L vay giùm cho bà T1,
ông T, cũng không thỏa thuận T1, ông T có nghĩa vụ trả tiền vay thay cho
bà Y, ông L. Việc bà H đến nhà ông T, bà T1 nhận tiền là do bà Y nhờ bà H đến
8
nhận chứ không phải thỏa thuận bà T1, ông T nghĩa vụ trả tiền vay cho H,
ông T2. Việc vay tài sản giữa bà H, ông T2 và bà Y, ông L đã được Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Thuận giải quyết tại bản án số 93/2023/DS-PT ngày 01/08/2023.
Hơn nữa, H, ông T2 không biết, không tham gia việc vay tài sản giữa ông L,
Y ông T, T1. Do đó H, ông T2 không quyền, lợi ích hợp pháp gì
liên quan trong vụ án. vậy H, ông T2 không có ý kiến đối với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn ông L và cũng không có yêu cầu gì trong vụ án này.
4. Các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thp được trong hồ sơ vụ án:
- Tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp: 01 tờ giấy kẽ ô li (loại giấy vở
học sinh), chữ viết tay bằng mực màu xanh trên cả 02 trang giấy; trang trước
dòng đầu tiên ghi nội dung “Ngày 11/3/âm tức 13/4/2011 Trọng mượn”, phía
dưới cùng có 01 chữ ký ghi tên Huỳnh Thị T1; trang sau có dòng đầu tiên ghi ni
dung “22/4/2011 Anh Trọng mượn H”, phía dưới cùng 01 chữ không ghi
tên. 01 bản phô tô 01 giấy ghi tựa đề “GIẤY XÁC NHẬN CÔNG NỢ”, ghi ngày
“20/12/2021 (DL)”. 01 bản phô tô 01 tờ giấy ghi 04 nội dung vay tiền, dưới mỗi
nội dung đều có 01 chữ ký ghi n Nguyễn Thị Y.
- Tài liệu, chứng cứ bên bị đơn cung cấp: 01 đĩa CD có chứa 02 file dữ liệu
lời nói; trong đó file đầu tiên tên “Thoại 003”, file thứ haitên “Thoại 011-
sd”. 01 Vi bằng do Văn phòng T4 lập ngày 28/02/2023. Bản sao bản án số
17/2023/DS-ST ngày 13/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh. Bản sao
Bản án án số 93/2023/DS-PT ngày 01/08/2023 của a án nhân dân tỉnh Bình
Thuận. 01 bản phô 01 tờ giấy, chữ viết tay, dòng đầu tiên nội dung Hạnh
Vỏ X”, dòng cuối cùng có nội dung “1/2020 Trả 10 Tr”.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm s 09/2024/DS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận nay Toà án nhân dân
khu vực 16 - Lâm Đồng đã quyết định:
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147, các Điều 227, 228, 271, 273 của Bộ luật
tố tụng dân sự. Khoản 2 Điều 305, Điều 471, các khoản 1, 2 Điều 474, khoản 1
Điều 476 của Bộ luật dân sự 2005. Khoản 2 Điều 468, điểm a khoản 1 Điều 688
của Bộ luật dân s2015; khoản 4 Điều 26 nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quc hội; điểm c khoản 1 Điều 2, điểm a khoản
1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ/HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối Cao.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Công L: Buộc
ông Võ n T, bà Hunh Thị T1 nghĩa vụ liên đới trả cho ông Huỳnh Công L,
Nguyễn Thị Y tổng số tiền 1.000.370.000đồng (Một tỷ ba trăm bảy mươi
9
ngàn đồng), trong đó gồm 507.970.000đồng tiền vay gốc và 492.400.000đồng tiền
lãi.
[2] Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của ông Hunh Công L về việc
buộc ông n T, Huỳnh Thị T1 nghĩa vụ liên đới trả cho ông Huỳnh
Công L, bà Nguyễn Thị Y 172.030.000đồng tiền vay gốc (ngoài số tiền vay gốc
507.970.000đồng được chấp nhận nêu trên).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về tiền lãi chậm thi nh án, về án phí,
quyền, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm ông Võ Văn T, bà Huỳnh Thị T1 nộp đơn kháng cáo
toàn bộ bản ánn s thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án
dân sự sơ thẩm số 09/2024/DS-ST ngày 27-3-2024 của Toà án nhân dân khu vực
16 - Lâm Đồng theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
- Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, xác định đã trhết nợ của nguyên
đơn, đề nghị sửa bản án dân sự thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, hoặc đề nghị hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án giai đoạn phúc thẩm quan
điểm giải quyết vụ án: Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội
đồng xét xử, thư ký Tòa án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền nghĩa vụ theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vnội dung ván: Đnghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Văn T, bà Huỳnh Thị T1, đ
nghị giữ nguyên bản án dân sự thẩm số 09/2024/DS-ST ngày 27-3-2024 của
Toà án nhân dân khu vực 16 - Lâm Đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ o các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại
phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Lâm Đồng, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Văn T, Huỳnh Thị T1 kháng cáo
trong thời hạn và đúng quy định pháp luật nên vụ án được xem xét theo thủ tục
phúc thẩm. Tòa án nhân dân cấp thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp
thụ giải quyết đúng quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều
35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
10
[2] Tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan H, ông T2 vắng
mặt không do nhưng đương sđã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, do
đó HĐXX giải quyết vụ án vắng mặt bà H, ông T2.
[3] Xét kháng cáo của bị đơn, HĐXX nhận thấy: Bị đơn ông Võ Văn T, bà
Huỳnh Thị T1 đều cho rằng không vay tài sản của ông Huỳnh Công L,
Nguyễn Thị Y ông T, bà T1 vay của bà H, ông T2 số tiền 680.000.000 đồng.
Tuy nhiên trong các lần vay tài sản của nguyên đơn thì ông T, T1 đều viết giấy
ghi nhận cho Y, ông L vào các ngày 13/04/2011, 15/04/2011, 22/04/2011,
19/06/2011, 18/08/2011, với tổng số tiền vay 680.000.000 đồng. c chứng cứ
này đều được các bên đương sự thừa nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn không
xác định được vì sao các tờ giấy vay tiền này không thu hồi hoặc u cầu nguyên
đơn, hoặc bà H, ông T2 làm thủ tục hoàn thành trả nợ nếu đã trả nợ xong. Bị đơn
khai nhờ ông L, Y vay giúp nhưng bị đơn không chứng cứ chứng minh. Như
vậy thông qua tờ giấy viết ghi nhận nợ của ông T, bà T1 thì đã đủ cơ sở xác định
bị đơn vay tiền của nguyên đơn (tiền vay 680.000.000 đồng) do đó nghĩa vụ
chứng minh đã trả nợ là của bị đơn. Bị đơn không chứng minh được thì phải chịu
trách nhiệm đối với khoản nợ này.
[4] Vviệc trả nợ vay, ông T, bà T1 cho rằng đã trả nợ 680.000.000 đồng
cho ông Huỳnh Công L, bà Nguyễn Thị Y thông qua bà H, ông T2 thể hiện bằng
bản phô 01 tờ giấy, chữ viết tay, dòng đầu tiên nội dung “Hạnh Vỏ X”.
Chứng cứ này bị đơn cho rằng đã trả nợ cho nguyên đơn thông qua bà H, ông T2.
Tuy văn bản giấy là bản photo nhưng được H, ông T2 thừa nhận nên được xem
chứng cứ. Xét nội dung tờ giấy về việc trả nợ này thì tại Bản án dân sự phúc
thẩm số 93/2023/DS-PT ngày 01/08/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận
đã xác định việc số tiền trả nợ của ông T, bà T1 cho bà H, ông T2 chỉ là trả tiền
lãi. Như vậy nội dung này của bản án dân sự phúc thẩm số 93/2023/DS-PT ngày
01/08/2023 là chứng cứ không phải chứng minh.
[5] Đồng thời tại Thông báo số 690/TB-VKS-DS ngày 10/6/2024 của Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh trả lời choNguyễn Th
Y xác định việc trả số tiền 680.000.000 đồng này là trả lãi chứ không phải trả nợ
gốc và không có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Do đó đoạn ghi
âm của bị đơn cung cấp về cuộc nói chuyện trao đổi về việc vay mượn tiền với
ông L, bà Y, bà H, ông T2 đều không sở để xem xét. Mặt khác, nếu đã trả
hết nợ tại giấy Hạnh Vỏ Xu” chốt tiền trả n680.000.000 đồng đến ngày
21/01/2017 nhưng dòng ghi “1/2020 trả 10tr” tbị đơn cho rằng đã hết gốc từ
21/01/2017 nhưng đến tháng 1/2020 trả lãi 10.000.000 đồng vì H cho nợ tiền
lãi. Lời trình bày không đúng với nguyên tắc vay mượn thông thường, khi đã
trả hết ngốc thì không thể phát sinh thêm tiền i. Bđơn không đưa ra được
chứng cứ nào đchứng minh việc trả lãi đến tháng 1/2020 là chấm dứt hay
thỏa thuận nào xác định bị đơn đã trả hết gốc và cho nợ tiền lãi.
11
[6] Do đó, tờ giấy “Hạnh Vỏ Xu”, đoạn ghi âm của bị đơn cung cấp tại
phiên đối chất của Tòa án cấp phúc thẩm là không đủ cơ sở để xem xét bị đơn đã
trả nợ cho nguyên đơn và không có căn cứ để xác định hai khoản nợ (giữa bà H
ông L; giữa ông L ông T) chỉ là một khoản nợ. Đồng thời không đủ chứng cứ
để xác định bà H cho ông L vay, rồi ông L cho ông T vay, ông T trả nợ cho bà H
là hoàn tất nghĩa vụ trả nợ của bị đơn. Vì vậy Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm buộc
bị đơn trnợ cho nguyên đơn căn cứ. Việc áp dụng lãi suất tính lại tiền
lãi vượt mức quy định là đúng quy định của pháp luật.
[7] Về thời gian tính lãi, tại giấy nợ trong các thời điểm ghi trả lãi đều ghi
trả lãi tháng 12/2011 (ÂL). Nvậy bị đơn đã trả tiền lãi của 5 khoản vay đến
29/12/2011 Âm lịch tương ứng ngày 22/01/2012 dương lịch. Từ ngày 29/01/2014
bị đơn bắt đầu trả tiền lãi tiếp tục.
Tiền lãi của tất cả khoản vay trong năm 2011 đã trả đến 12/2011 ÂL. Từ
ngày 23/01/2012 đến 29/01/2014 2 năm 6 ngày: 680.000.000 đồng với mức
13,5%/năm = 185.130.000 đồng.
Tổng số tiền lãi ông T, T1 nghĩa vụ trả cho ông L, Y theo quy
định pháp luật tính đến ngày 29/01/2014 là 185.130.000 đồng. Ngày 29/01/2024,
ông T đã trả 200.000.000 đồng tiền lãi, vượt mức 14.870.000 đồng, trừ vào gốc,
còn nợ lại 665.130.000 đồng.
- Tiền lãi trên số tiền gốc 665.130.000 đồng tính từ ngày 30/01/2014 đến
ngày 16/02/2015 là 01 năm 16 ngày với lãi suất 13,5%/năm = 92.785.635 đồng.
Ngày 16/02/2015, ông T đã trả 150.000.000đồng tiền lãi. Số tiền lãi trả vượt quá
57.214.365 đồng được khấu trừ vào tiền vay gốc còn nợ lại là 665.130.000 -
57.214.365 đồng = 607.915.635 đồng .
- Tiền lãi trên số tiền gốc 607.915.635 đồng tính từ ngày 17/02/2015 đến
ngày 05/02/2016 là 11 tháng 18 ngày, lãi suất 13,5%/năm = 79.332.988 đồng.
Ngày 05/02/2016, ông T đã tr 20.000.000đồng tiền lãi, tính đến hết ngày
16/02/2015, ông T, bà T1 còn nợ ông L, bà Y 607.915.635 đồng tiền vay gốc và
59.332.988 đồng tiền lãi.
- Tiền lãi trên số tiền gốc 607.915.635 đồng tính từ ngày 06/02/2016 đến
ngày 17/05/2016 03 tháng 11 ngày, lãi suất 13,5%/năm = 23.024.803 đồng.
Ngày 17/05/2016, ông T đã trả 150.000.000đồng tiền lãi. Số tiền lãi trả vượt quá
67.642.209 đồng = (150.000.000đồng - 23.024.803 đồng - 59.332.988 đồng) được
khấu trừ vào tiền vay gốc còn nợ lại: 540.273.426 đồng.
- Tiền lãi trên số tiền gốc 540.273.426 đồng tính từ ngày 18/05/2016 đến
ngày 21/01/2017 08 tháng 03 ngày, lãi suất 13,5%/năm = 49.232.415 đồng.
Ngày 21/01/2017, ông T đã trả 160.000.000đồng tiền lãi. Số tiền lãi trả vượt quá
110.767.585 đồng (160.000.000đồng - 49.232.415 đồng) được khấu tr vào
12
540.273.426 đồng tiền vay gốc còn nợ lại gốc 429.505.841 đồng. Do đó tính
đến hết ngày 21/01/2017, ông T, bà T1 còn nợ ông L, bà Y 429.505.841 đồng tiền
vay gốc.
vậy ông T, T1 có nghĩa vụ trả 429.505.841 đồng tiền vay gốc còn nợ
cho ông L, Y, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 474 của Bộ luật dân sự
năm 2005. Ông T, T1 phải nghĩa vụ trtiền lãi phát sinh trên số tin vay
gốc còn nợ 429.505.841 đồng, với mức lãi suất 13.5%/năm (mức lãi suất, tương
ứng với thời gian chậm trả tính từ ngày 22/01/2017 đến ngày xét xử thẩm
27/03/2024 07 năm 02 tháng 05 ngày. Theo đó, tiền lãi được tính như sau:
438.938.026 đồng x (07 + 2/12 + 5/365)năm x 13,5%/năm = 416.352.216 đồng.
Trừ 10.000.000 đồng tiền lãi vào tháng 1/2020 còn lại 406.352.216
[8] Từ những phân ch u trên, việc cấp thẩm tuyên chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng với thỏa thuận giữa các đương sự, phù
hợp quy định của pháp luật. Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa về kháng
cáo của bị đơn là phù hợp với nhận định của HĐXX do đó kháng cáo của đương
sự không có căn cứ để Hội đồng xét xử cp phúc thẩm chấp nhận. Tuy nhiên việc
tính thời gian trả lãi chưa chính xác nên HĐXX cần sửa lại bn án dân sthẩm.
Án phí cũng được tính lại.
[9] Ván phí dân sự phúc thẩm: Do kháng o không được chấp nhận nhưng
bản án phải sửa một phần nên người kháng cáo không phải nộp án phí dân sự
phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[10] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, không
bị kháng nghị hiệu lực pháp luật ktừ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ: Khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự m
2015; Điều 6,7 Nghị quyết s01/2025/NQ-HĐTP ngày 27/6/2025 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Văn T, bà Huỳnh
Thị Tuyết . Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2024/DS-ST ngày 27 tháng 3 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận nay là Toà án nhân
dân khu vực 16 - Lâm Đồng.
2. Căn cứ:
- Điểm b khoản 1 Điều 92, Điều 147, Khoản 1 Điều 148, Điều 313 của Bộ
luật Tố tụng dân sự ;
13
- Khoản 2 Điều 305, Điều 471, các khoản 1, 2 Điều 474, khoản 1 Điều 476
của Bộ luật Dân sự 2005. Khoản 2 Điều 468, điểm a khoản 1 Điều 688 của Bộ
luật Dân sự 2015;
- Khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Khoản 4 Điều 26, khoản 2 Điều 29 của Ngh quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Tòa án.
3. Tuyên xử:
3.1 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Công L: Buộc
ông Võ n T, bà Hunh Thị T1 nghĩa vụ liên đới trả cho ông Huỳnh Công L,
Nguyễn ThY tổng số tiền 835.858.057đồng (tám trăm ba mươi lăm triệu
tám trăm năm mươi tám nghìn không trăm năm mươi bảy đồng), trong đó
429.505.841 đồng tiền vay gốc và 406.352.216 đồng tiền lãi tính đến ngày xét xử
sơ thẩm 27-3-2024.
3.2 Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của ông Hunh Công L về việc
buộc ông n T, Huỳnh Thị T1 nghĩa vụ liên đới trả cho ông Huỳnh
Công L, bà Nguyễn Thị Y 250.494.159 đồng tiền vay gốc.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp
luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức i suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Ván pdân sự thẩm: Ông n T, Huỳnh Thị T1 phải chịu
37.075.000 đồng án pdân sự thẩm. Ông Huỳnh Công L có nghĩa vụ chịu
12.524.000 đồng án phí dân sự thẩm, khấu trừ vào 25.333.000 đồng tạm ng
án phí đã nộp theo các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005285 ngày
23/10/2023 số 0005516 ngày 27/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Trả lại 12.809.000đồng cho ông Huỳnh Công L tạm
ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Văn T, bà Huỳnh Thị T1 không
phải nộp án phí dân sphúc thẩm. Số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà T1
nộp theo biên lai s0005849 ngày 15/4/2024 300.000 đồng ông T nộp theo
biên lai số 0005848 ngày 15/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tánh
Linh, tỉnh Bình Thuận nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 16 - Lâm Đồng
được trả lại cho đương sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
Dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án Dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
14
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7A và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
6. Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, không b
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
12/8/2025).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh LĐ;
- TANDKV16-LĐ;
- Phòng THADS KV16-LĐ;
- Các đương sự;
- Cổng TTĐT-TANDTC;
- Lưu: Hồ sơ; Tòa DS; Tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Lê Phương
Tải về
Bản án số 153/2025/DS-PT Bản án số 153/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 153/2025/DS-PT Bản án số 153/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất