Bản án số 15/2025/HNGĐ-ST ngày 09/05/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 17 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 15/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 15/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 15/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 15/2025/HNGĐ-ST ngày 09/05/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 17 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 17 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh |
Số hiệu: | 15/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/05/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Vụ án hôn nhân về tranh chấp tài sản trong thời kỳ hôn nhân |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BẮC TÂN UYÊN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 15/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 09-5-2025
V/v tranh chấp tài sản
trong thời kỳ hôn nhân
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Bích Huế.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Bồ Quốc Khánh;
Ông Đoàn Văn Lước.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đỗ Đức Thắng - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
tham gia phiên tòa: Ông Trương Anh Tú - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên,
tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số
36/2022/TLST-HNGĐ ngày 02/3/2022 về việc: Tranh chấp tài sản vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2025/QĐXXST-
HNGĐ ngày 21/02/2025, Quyết định hoãn phiên toà số 03/2025/QĐST-HNGĐ
ngày 14/3/2025 và số 07/2025/QĐST-HNGĐ ngày 10/4/2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1982; địa chỉ: Số A, hẻm A (đường A),
phường P, Thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hoàng Kim Minh C, sinh năm
1984; địa chỉ: Số A, đường L, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, là đại diện ủy
quyền theo Văn bản ủy quyền ngày 22/4/2021 và 13/4/2022.
- Bị đơn: Ông Lại Xuân H1, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn Y, xã L, huyện T,
tỉnh Hà Nam.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Văn T, sinh năm 1988 và bà Nguyễn Thị Bích T1, sinh năm
1991; cùng địa chỉ: Tổ C, khu phố K, phường T, huyện B, tỉnh Bình Dương;
2. Văn phòng C1; địa chỉ: Tổ E, khu phố C, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình
Dương. Đại diện theo pháp luật: Ông Phan Công L – Trưởng Văn phòng;
2
3. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982; bà Nguyễn Thị Thanh X, sinh năm
1982; cùng địa chỉ: Số B, Hương lộ H, khu phố B, phường B, quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh;
4. Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1974; địa chỉ: Tổ A, ấp C, xã T, huyện B,
tỉnh Bình Dương;
5. Văn phòng C2; địa chỉ: Số C, phường H, thành phố T. Người đại diện theo
pháp luật: Ông Phạm Văn T2 – Trưởng Văn phòng;
6. Ông Lê Văn T3, sinh năm 1983 và bà Lê Thị P, sinh năm 1985; cùng địa
chỉ thường trú: Thôn C, xã H, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; địa chỉ cư trú: Tổ C,
khu phố K, phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 06/10/2021 và 14/01/2022, nguyên đơn bà Nguyễn
Thị H và người đại diện ông Hoàng Kim Minh C thống nhất trình bày:
Bà H và ông Lại Xuân H1 là vợ chồng theo đăng ký kết hôn số 156 ngày
10/10/2017 tại Ủy ban nhân dân phường P, Quận I, thành Phố Hồ Chí Minh. Quá
trình chung sống, bà H và ông H1 có tạo lập được tài sản chung là quyền sử dụng
đất (QSDĐ) diện tích 1.347,3m² thửa đất số 907, tờ bản đồ số 21, tại xã T, huyện
B, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số CR
246808 ngày 08/11/2019 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Lại
Xuân H1. Xe ô tô hiệu Huyndai Accent màu đen, biển kiểm soát 51G-07728 được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 404148 do bà Nguyễn Thị H đứng tên.
Từ ngày 12/5/2020, ông H1 bỏ nhà đi đâu bà H không rõ, đi mang theo xe ô
tô biển số 51G-07728.
Tháng 3/2021, bà H nhận được tin ông H1 đã tự ý chuyển nhượng thửa đất
trên cho người khác nên bà đã gửi đơn ngăn chặn việc chuyển nhượng, đăng ký
biến động đến các cơ quan có thẩm quyền tại huyện B, tỉnh Bình Dương. Ngày
04/4/2021, bà H nhận được Công văn số 1277/CNVPĐK ĐĐ-ĐK ngày 02/4/2021
của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện B cho biết, ông H1 đã chuyển
nhượng thửa đất trên cho ông Trần Văn T, người mua đã được Chi nhánh Văn
phòng Đăng ký đất đai huyện B thừa ủy quyền Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
B cấp GCNQSDĐ số DA 634067, số vào sổ cấp GCN số CS05479 ngày
25/02/2021.
Thửa đất 907 là tài sản chung của bà H và ông H1 trong thời kỳ hôn nhân
nhưng ông H1 tự ý chuyển nhượng là trái pháp luật. Do đó, bà H khởi kiện yêu cầu
Toà án giải quyết các vấn đề sau:
- Tuyên giao dịch chuyển nhượng QSDĐ đối với thửa đất số 907 giữa ông
Lại Xuân H1 và ông Trần Văn T vô hiệu.
- Tuyên hủy GCNQSDĐ số DA 634067, số vào sổ cấp GCN số CS05479
cấp ngày 25/02/2021 cho ông Trần Văn T.
- Phân chia tài sản chung đối với thửa đất số 907 diện tích 1.347,3m
2
. Bà H
yêu cầu nhận bằng hiện vật là ½ diện tích đất thửa 907. Đến thời điểm mở phiên
3
toà, nguyên đơn và người đại diện yêu cầu phân chia ½ giá trị QSDĐ.
- Phân chia xe ô tô hiệu Huyndai Accent màu đen, biển kiểm soát 51G-
07728. Bà H yêu cầu được hưởng ½ giá trị xe.
Bị đơn ông Lại Xuân H1 đã được Toà án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án
theo Phiếu báo phát ngày 04/7/2022, 15/8/2022; Giấy triệu tập tham gia buổi đo
đạc, xem xét thẩm định tại chỗ ngày 13/7/2022, ngày 07/9/2022; triệu tập tham gia
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải vào lúc
08 giờ ngày 12/5/2023, 13 giờ 30 phút ngày 30/5/2023, Triệu tập tham gia phiên
toà vào các ngày 14/3/2025, 10/4/2025 và 09/5/2025 nhưng vẫn vắng mặt không
có lý do và không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị
Bích T1 trình bày tại Bản tự khai ngày 07/7/2022 như sau: Ông T nhận chuyển
nhượng thửa đất 907 từ ông Lê Văn T3. Việc mua bán có lập hợp đồng và được
công chứng tại Văn phòng C2, có xác nhận tình trạng bất động sản là đất không
tranh chấp. Ông T đã được cấp GCNQSDĐ số DA 634067 ngày 25/02/2021, hiện
ông đang quản lý, sử dụng đất. Ông T không biết bà H và ông H1. Đề nghị Toà án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Phan Công
L trình bày tại Bản tự khai ngày 14/4/2023 như sau: Ngày 10/6/2020, Văn phòng
C1 tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thửa đất
số 907 theo yêu cầu của ông H1. Công chứng viên công chứng theo đúng trình tự
thủ tục. Tại thời điểm công chứng Hợp đồng, ông H1 xuất trình bản chính “Giấy
xác nhận tình trạng hôn nhân” số 04/UBND- XNTTHN do UBND xã L, huyện T,
tỉnh Hà Nam cấp ngày 26/5/2020 để chứng minh độc thân tại thời điểm tạo lập tài
sản là đối tượng của Hợp đồng; có xác nhận tình trạng bất động sản của UBND xã
T xác nhận ngày 10/6/2020.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Phạm Văn
T2 trình bày tại Công văn số 22 ngày 13/02/2024 như sau: Ngày 26/01/2021, Văn
phòng C2 có tiếp nhận hồ sơ công chứng Hợp đồng chuyển nhượng đối với thửa
đất số 907 theo yêu cầu của ông Lê Văn T3, bà Lê Thị P và ông Trần Văn T. Hồ
sơ công chứng có đầy đủ giấy tờ theo quy định, có xác nhận tình trạng bất động sản
của UBND xã T xác nhận ngày 25/01/2021 đất không tranh chấp. Văn bản công
chứng được lập theo đúng trình tự thủ tục. Bà H yêu cầu Tòa án tuyên hủy toàn bộ
Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số 508 ngày 26/01/2021 là không phù hợp.
Chứng thư thẩm định giá số Vc 330/2024/15 ngày 31/10/2024 của Công ty
TNHH D kết luận giá trị thẩm định xe ô tô con hiệu Huynhdai, loại Accent, màu
đen có giá tại thời điểm thẩm định là 315.083.000 đồng.
Biên bản định giá ngày 15/11/2024 của Hội đồng định giá huyện B kết luận
giá trị quyền sử dụng đất thửa đất 907 có giá: Giá trị QSDĐ ở là 3.000.000 đồng/m
2
,
đất trồng cây lâu năm có giá 1.500.000 đồng/m
2
.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên phát
biểu ý kiến:
4
Về thủ tục tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên toà: Người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng trình tự, thủ tục theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Bà H với ông H1 là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo Giấy
chứng nhận đăng ký kết hôn số 156 ngày 10/10/2017 tại Ủy ban nhân dân phường
P, đến nay chưa ly hôn. Thửa đất 907 được ông H1 nhận nhượng ngày 16/10/2019.
Xe ô tô hiệu Huyndai Accent màu đen, biển kiểm soát 51G-07728 được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký xe ô tô số 404148 ngày 26/9/2018 do bà H đứng tên. Các tài
sản này đều được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Ông H1 nộp giấy xác nhận tình
trạng độc thân có trước khi kết hôn với bà H đến tự ý chuyển nhượng đất cho người
khác là sai, tự ý bỏ đi đem theo xe ô tô mà không được sự đồng ý của bà H là sai.
Do đó, bà H khởi kiện yêu cầu phân chia ½ giá trị các tài sản nêu trên trong thời kỳ
hôn nhân là có căn cứ chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong h sơ vụ án đ được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ vào kt quả tranh lun tại phiên tòa, ý kin phát biểu của
đại diện Viện kiểm sát, Hội đng xt x nhn định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bà H và ông H1 là vợ chồng theo đăng ký kết
hôn số 156 ngày 10/10/2017 tại Ủy ban nhân dân phường P, Quận I, thành Phố Hồ
Chí Minh. Bà H khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Tài
sản bà H yêu cầu chia là QSDĐ thửa đất 907 tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương
và xe ô tô, căn cứ khoản 2 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36 và
điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ việc thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
[2] Về thủ tục tố tụng: Đại diện nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng
mặt; ông H1 đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà 2 lần nhưng không đến và
không có lý do; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn đề nghị
Toà án giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng
dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt các đương sự của vụ án.
[3] Hồ sơ cấp GCNQSDĐ thửa đất 907 cho thấy: Thửa đất 907 diện tích
1.347,3m
2
có được từ việc nhận chuyển nhượng theo HĐCNQSDĐ ngày
16/10/2019 giữa bà X, ông L1 với ông H1. Ông H1 được STN&MT tỉnh Bình
Dương cấp GCNQSDĐ số CR 246808 ngày 08/11/2019. Xe ô tô hiệu Huyndai
Accent màu đen, biển kiểm soát 51G-07728 được cấp Giấy chứng nhận đăng ký xe
ô tô số 404148 ngày 26/9/2018 do bà Nguyễn Thị H đứng tên.
[4] Ông H1 với bà H kết hôn năm 2017, đến nay chưa có bất cứ tài liệu nào
thể hiện đã ly hôn. Ông H1 cũng không cung cấp được bất cứ tài liệu chứng cứ nào
thể hiện các tài sản nêu trên là tài sản riêng của ông. Khoản 1 và 3 Điều 33 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau: “Tài sản chung của vợ chng
gm tài sản do vợ, chng tạo ra … trong thời kỳ hôn nhân” “QSDĐ mà vợ, chng
có được sau khi kt hôn là tài sản chung của vợ chng, trừ trường hợp vợ hoặc
chng được thừa k riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch
5
bằng tài sản riêng”. “Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản
mà vợ, chng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được
coi là tài sản chung”. Như vậy, Thửa đất 907 và xe ô tô biển kiểm soát 51G-07728
là tài sản chung của bà H với ông H1 trong thời kỳ hôn nhân.
[5] Khoản 1 và khoản 3 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy
định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân: “Trong thời kỳ hôn nhân, vợ
chng có quyền thỏa thun chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, …; nu
không thỏa thun được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyt”; “Trong trường
hợp có yêu cầu thì Toà án giải quyt việc chia tài sản chung của vợ chng theo quy
định tại Điều 59 Lut này”. Từ ngày 12/5/2020, ông H1 không còn chung sống với
bà H. Do đó, bà H yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên là có căn cứ.
[6] Hồ sơ cấp GCNQSDĐ thửa đất 907 thể hiện: Thửa đất 907 được ông H1
chuyển nhượng cho ông Đ theo HĐCNQSDĐ ngày 10/6/2020, có công chứng. Tại
thời điểm công chứng Hợp đồng, ông H1 xuất trình bản chính “Giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân” số 04/UBND- XNTTHN do UBND xã L, huyện T, tỉnh Hà Nam
cấp ngày 26/5/2020 có nội dung ông H1 có vợ tên Nguyễn Thị T4 và đã ly hôn theo
QĐCNTTLH số 02/2016/QĐST-HNGĐ ngày 25/10/2016 của UBND thành phố P,
tỉnh Hà Nam. Tuy nhiên, sau khi ly hôn với bà T4 năm 2016, ông H1 kết hôn với
bà H theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 156 ngày 10/10/2017 tại UBND
phường P, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, ông H1 đã cố tình khai báo
gian dối, cung cấp thông tin không đầy đủ để xác định thửa đất 907 được tạo lập
và chuyển nhượng trong thời kỳ ông H1 độc thân nhằm chuyển nhượng đất cho
người khác mà không có sự đồng ý của bà H là đồng sở hữu chung. Đây là hành vi
trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà H. Khoản 1 Điều
35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản chung của vợ chồng như sau: “Việc chim hữu, s dụng, định đoạt tài sản
chung do vợ chng thỏa thun”. Ông H1 tự quyết định là trái pháp luật.
[7] Ông Đ không thể biết được ông H1 khai báo gian dối. Ông Đ mua đất
trong trường hợp này là ngay tình nên quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba
ngay tình được pháp luật bảo vệ; các giao dịch mua bán QSDĐ từ ông Đ cho những
người khác đến ông T vào thời điểm hiện tại cũng ngay tình. Do đó, chỉ có thể phân
chia đất bằng giá trị theo kết quả định giá tại thời điểm Toà án giải quyết vụ án. Bà
H yêu cầu phân chia bằng giá trị QSDĐ là có căn cứ.
[8] Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nguyên tắc phân
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: Tài sản chung của vợ
chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố như hoàn cảnh của gia đình, của
vợ, chồng, lỗi của các bên và công sức đóng góp. Tài sản chung của vợ chồng được
chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào
nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải
thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
[9] Giá trị QSDĐ thửa đất 907 diện tích 1.347,3m² theo Biên bản định giá
ngày 15/11/2024 thể hiện: Đất ở có giá 3.000.000 đồng/m
2
, đất trồng cây lâu năm
có giá 1.500.000 đồng/m
2
. Tổng giá trị QSDĐ là 2.320.950.000 đồng. Ông H1 có
nghĩa vụ thanh toán cho bà H ½ giá trị QSDĐ số tiền 1.160.475.000 đồng.
6
[10] Xe ô tô hiệu Huyndai Accent màu đen, biển kiểm soát 51G-07728 được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 404148 do bà H đứng tên. Hiện xe này bà
H không giữ. Bà H khai ông H1 giữ xe. Toà án đã thông báo cho ông H1 biết yêu
cầu khởi kiện của bà H, yêu cầu ông H1 đem xe đến Toà để định giá nhưng ông H1
không đến. Do đó, Toà án căn cứ vào hồ sơ đăng ký xe do Cơ quan Công an cung
cấp để thẩm định giá. Kết quả định giá xe có giá 315.083.000 đồng. Do đó, ông H1
có nghĩa vụ thanh toán ½ giá trị chiếc xe số tiền 157.541.500 đồng, ông H1 được
nhận xe, làm thủ tục chuyển đổi tên người đứng tên đăng ký xe từ bà H sang ông
H1.
[11] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
[12] Về án phí, chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá và thẩm
định giá: Bà H và ông H1 mỗi bên phải chịu ½ chi phí và án phí theo quy định của
pháp luật tương ứng với giá trị tài sản được chia.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng
dân sự;
Áp dụng Điều 1 và 3 Điều 33, khoản 1 và 3 Điều 38, Điều 35 và Điều 59
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Áp dụng điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H với bị đơn
ông Lại Xuân H1 về tranh chấp tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Bị đơn ông Lại Xuân H1 có nghĩa vụ thanh toán ½ giá trị quyền sử dụng đất
thửa 907 và ½ giá trị xe ô tô hiệu Huyndai Accent màu đen, biển kiểm soát 51G-
07728 cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị H số tiền 1.318.016.500 (Một tỉ ba trăm
mười tám triệu không trăm mười sáu nghìn năm trăm) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bà Nguyễn Thị H có đơn yêu cầu
thi hành án cho đến khi thi hành xong, nếu ông Lại Xuân H1 chậm trả tiền thì phải
trả thêm tiền lãi theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm
2015 tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành.
2. Về chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá và thẩm định giá:
10.867.000 đồng. Bà Nguyễn Thị H và ông Lại Xuân H1, mỗi người phải chịu
5.433.500 đồng. Bà H đã nộp tạm ứng toàn bộ chi phí nên ông H1 có nghĩa vụ nộp
5.433.500 (Năm triệu bốn trăm ba mươi ba nghìn năm trăm) đồng để trả cho bà H.
3. Về án phí:
7
Bà Nguyễn Thị H phải nộp 51.540.495 đồng. Khấu trừ vào 15.000.000 đồng
tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số
AA/2021/0009916 ngày 21/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc
Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, bà H còn phải nộp 36.540.495 (Ba mươi sáu triệu năm
trăm bốn mươi nghìn bốn trăm chín mươi lăm) đồng.
Ông Lại Xuân H1 phải nộp 51.540.495 (Năm mươi mốt triệu năm trăm bốn
mươi nghìn bốn trăm chín mươi lăm) đồng.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng
cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND huyện Bắc Tân Uyên;
- CCTHADS huyện Bắc Tân Uyên;
- Đương sự;
- Lưu: HS, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Bích Huế
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 09/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 06/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm