Bản án số 132/2022/HS-ST ngày 03/08/2022 của TAND Q. Thanh Xuân, TP. Hà Nội về tội môi giới mại dâm

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 132/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 132/2022/HS-ST ngày 03/08/2022 của TAND Q. Thanh Xuân, TP. Hà Nội về tội môi giới mại dâm
Tội danh: 255.Tội môi giới mại dâm (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Thanh Xuân (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 132/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/08/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 132/2022/HS-ST NGÀY 03/08/2022 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 03 tháng 08 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 120/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 07 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 246/2022/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 07 năm 2022 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN T, sinh năm 1996 tại Tuyên Quang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; Chỗ ở: Số 28, ngách 20, ngõ 402 M, phường M, quận N, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn T, con bà Nguyễn Thị L; Có vợ là Phùng Thị Q và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt quả tang ngày 29/12/2021, tạm giữ ngày 30/12/2021, huỷ bỏ quyết định tạm giữ ngày 08/01/2022. Bị cáo tại ngoại, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1986; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố 2, thị trấn N, huyện T, tỉnh Bắc Giang; Chỗ ở: 92 đường N, phường Q, quận C, Hà Nội - Vắng mặt tại phiên toà

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 50 phút ngày 29/12/2021, Phòng Cảnh sát hình sự - Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công an phường Nhân Chính tiến hành kiểm tra khách sạn M ở địa chỉ số 90 ngõ 116 phố N, phường N, quận T, Hà Nội phát hiện Nguyễn Văn T đang ở phòng 404 có hành vi môi giới cho Phạm Thị H (Sinh năm:

1986; Hộ khẩu thường trú: Xã N, huyện T, tỉnh Bắc Giang), Trần Hưng Đ (sinh năm: 1999; hộ khẩu thường trú: Tổ 2, thị trấn Đ, huyện Đ, Hà Tĩnh), Trần Thị T (Sinh năm:1976; hộ khẩu thường trú: xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang) và Nguyễn Vũ H (Sinh năm: 1995; hộ khẩu thường trú: Xóm 6, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định) mua bán dâm với nhau. Tổ công tác lập biên bản, thu giữ tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở giải quyết Quá trình điều tra xác định: Từ khoảng đầu tháng 01/2021, Nguyễn Văn T tạo tài khoản facebook “Gia H - Chuyên viên M - Tăng cảm xúc - Uy tín - Kín đáo - Chuyên nghiệp - Lịch sự” đăng ảnh bán khỏa thân nam (T tìm ảnh trên mạng, che mặt) để môi giới mua bán dâm với khách nữ, đăng tải thông tin tìm cộng tác viên Massage (nhân viên nam) và sử dụng tài khoản Zalo “Kenvin” đăng ký bằng số điện thoại 0366.726.194 để khách liên hệ. Có Trần Hưng Đ tài khoản Zalo “Đ hẻn” đăng ký bằng số điện thoại 098.913.4969 và Nguyễn Vũ H tài khoản Zalo “H N” đăng ký bằng số điện thoại 0819.537.777 liên hệ làm nhân viên nam của T. Khi có khách mua dâm liên lạc, T gửi ảnh bán khỏa thân của nhân viên nam (có che mặt) cho khách xem, lựa chọn và thỏa thuận giá mua bán dâm từ 700.000 đồng đến 3.000.000 đồng/1 lượt/1 người. Sau khi chọn được địa điểm mua bán dâm thì T yêu cầu khách chuyển tiền đặt cọc trước từ 300.000 đồng đến 3.000.000 đồng đến tài khoản số 19035726944015 Ngân hàng Techcombank mang tên Nguyễn Văn T và điều nhân viên nam đi bán dâm cho khách. Sau khi bán dâm xong, nếu tiền đặt cọc chưa đủ tiền công môi giới thì nhân viên nam trực tiếp thu nốt tiền của khách và chuyển lại tiền công môi giới cho T với số tiền từ 200.000 đồng đến 1.500.000 đồng/1 lượt. T đã nhiều lần môi giới cho nhân viên nam đi bán dâm cho khách và thu lời bất chính 1.000.000 đồng, thông tin khách mua dâm và thời gian cụ thể T không nhớ và không còn lưu.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên. Lời khai của T phù hợp với lời khai của Trần Hưng Đ, Nguyễn Vũ H, Phạm Thị H, Trần Thị T và các tài liệu chứng cứ khác.

Anh Hoàng Văn T là nhân viên lễ tân khách sạn M trình bày: Khi các đối tượng đến thuê phòng, anh T đã thu chứng minh nhân dân để kiểm tra, do các đối tượng mới vào thuê nên anh T chưa kịp vào sổ lưu trú trực tuyến. Bản thân anh T không biết việc các đối tượng đến thuê phòng để hoạt động mua bán dâm và cũng không được hưởng lợi gì nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với hành vi bán dâm của Trần Hưng Đ, Nguyễn Vũ H, Công an quận Thanh Xuân đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 điều 23 Nghị định 167/2013/NĐ-CP.

Đối với hành vi mua dâm của Phạm Thị H, Trần Thị T, Công an quận Thanh Xuân đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 điều 22 Nghị định 167/2013/NĐ-CP.

Tại bản cáo trạng số 112/CT-VKS ngày 17 tháng 06 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân truy tố Nguyễn Văn T về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 328, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 30/12/2021 đến 08/01/2022; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 7.000.000 đồng, 01 điện thoại di động kiểu dáng LG V40 ThinQ màu ghi xám đã qua sử dụng có số Imei 359582092692536 bên trong lắp sim số 0366726194 thu giữ của Nguyễn Văn T; 01 điện thoại kiểu dáng Samsung J7 Pro màu ghi đã qua sử dụng có số imei 1: 353317092114637, imei 2: 353318092114635 bên trong lắp sim số thuê bao 0904.569.214 thu giữ của Phạm Thị Hà; Buộc bị cáo phải truy nộp số tiền thu lợi bất chính 6.000.000 đồng; Trả lại bị cáo T 01 thẻ ATM ngân hàng Techcombank mang tên Nguyễn Văn T.

Tại phiên toà: Bị cáo Nguyễn Văn T giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là đúng Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Về các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra Công an quậnThanh Xuân, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân thu thập; về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Xuân, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thu thập, thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Ngày 29/12/2021, Nguyễn Văn T đã có hành vi làm trung gian, môi giới để Trần Hưng Đ bán dâm cho Phạm Thị H, Nguyễn Vũ H bán dâm cho Trần Thị T tại khách sạn M ở địa chỉ số 90 ngõ 116 phố N, phường N, quận T, Hà Nội. Đối chiếu quy định của pháp luật, Nguyễn Văn T đã phạm tội “Môi giới mại dâm” theo quy định điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.

Theo lời khai của bị cáo, bị cáo đã nhiều lần môi giới cho Trần Hưng Đ, Nguyễn Vũ H đi bán dâm. Tuy nhiên, ngoài lời khai của bị cáo, không có tài liệu, chứng cứ khác để chứng minh nên không có căn cứ xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên”.

Tham gia việc mua, bán dâm có Trần Hưng Đ, Phạm Thị H, Nguyễn Vũ Hg, Trần Thị T, do hành vi chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Công an đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đ, H, Hg, T.

Đối với khách sạn M là nơi sảy ra hành vi mua bán dâm ngày 29/12/2021, quản lý khách sạn đã cung cấp thông tin và hợp tác với Cơ quan điều tra trong quá trình kiểm tra, bắt giữ các đối tượng. Do đó, Cơ quan điều tra không để cập xử lý đối với quản lý khách sạn.

[3]. Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến chính sách quản lý Nhà nước về phòng chống tệ nạn mại dâm mà còn làm ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục, văn hóa của dân tộc, là tác nhân trực tiếp gây ra nhiều căn bệnh nguy hiểm cho xã hội. Do tính chất nghiêm trọng của vụ án, để đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm mại dâm nói riêng, cần thiết phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự.

[4].Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, để cải tạo, giáo dục bị cáo và làm bài học răn đe người khác, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét tình tiết: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo để giảm một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[6]. Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo số tiền 7.000.000 đồng, 01 điện thoại di động kiểu dáng LG V40 ThinQ màu ghi xám đã qua sử dụng có số Imei 359582092692536 bên trong lắp sim số 0366726194; 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 11 Pro màu vàng đã qua sử dụng, bên trong lắp sim thuê bao 087.948; thu giữ của Đ 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 11 Promax màu vàng đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số thuê bao 0989.134.969; thu giữ của Hg 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 11 Promax màu ghi đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số thuê bao 081.953.7777; thu giữ của Phạm Thị H 01 điện thoại kiểu dáng Samsung J7 Pro màu ghi đã qua sử dụng có số imei 1: 353317092114637, imei 2: 353318092114635 bên trong lắp sim số thuê bao 0904.569.214.

Đối với 01 điện thoại Iphone 11 thu giữ của T, 01 điện thoại thu giữ của Đ, 01 điện thoại thu giữ của Hg là các tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Cơ quan Công an đã trả lại cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với số tiền 7.000.000 đồng, theo lời khai của T gồm 5.500.000 đồng do khách mua dâm trả, còn 1.500.000 đồng là tiền T mang theo. T thừa nhận, trước đó khách mua dâm đã chuyển số tiền đặt cọc 3.000.000 đồng vào tài khoản của T mở tại Ngân hàng Techcombank. Tổng cộng số tiền khách mua dâm đã trả cho T là 8.500.000 đồng. Xét thấy đây là số tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Cơ quan điều tra đã thu giữ của T 7.000.000 đồng, cần buộc T phải truy nộp tiếp số tiền 1.500.000 đồng để sung quỹ Nhà nước. Ngoài số tiền trên, bị cáo khai, trước đó bị cáo còn thu lợi từ việc môi giới mại dâm số tiền 4.500.000 đồng. Xét thấy, đây là số tiền chính bị cáo thừa nhận có được từ hành vi vi phạm pháp luật nên cần buộc bị cáo truy nộp sung quỹ Nhà nước. Tổng số tiền buộc bị cáo phải truy nộp sung quỹ Nhà nước là 6.000.000 đồng.

Đối với 01 điện thoại LG V40 ThinQ thu giữ của bị cáo, 01 điện thoại Samsung thu giữ của Phạm Thị H là các tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cũng cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Tuyên bố: Nguyễn Văn T phạm tội “Môi giới mại dâm”

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 328, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Căn cứ Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án

[1]. Xử phạt: Nguyễn Văn T 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn từ tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 30/12/2021 đến ngày 08/01/2022.

[2]. Về vật chứng (Hiện đang lưu giữ tại chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/07/2022 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 13/07/2022): Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 7.000.000 đồng, 01 điện thoại di động kiểu dáng LG V40 ThinQ màu ghi xám đã qua sử dụng có số Imei 359582092692536 bên trong lắp sim số 0366726194 thu giữ của bị cáo; 01 điện thoại kiểu dáng Samsung J7 Pro màu ghi đã qua sử dụng có số imei 1: 353317092114637, imei 2: 353318092114635 bên trong lắp sim số thuê bao 0904.569.214 thu giữ của Phạm Thị H.

- Buộc bị cáo phải truy nộp sung quỹ Nhà nước số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) do phạm tội mà có.

[3]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - chị Phạm Thị H có quyền kháng cáo phần bản án trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.

Tải về
Bản án số 132/2022/HS-ST Bản án số 132/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất