Bản án số 123/2025/HC-PT ngày 12/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 123/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 123/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 123/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 123/2025/HC-PT ngày 12/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 123/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/02/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 123/2025/HC-PT
Ngày: 12/02/2025
V/v “Khiếu kiện QĐHC trong lĩnh
vực quản lý đất đai”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Cường
Các thẩm phán: Ông Võ Ngọc Thông
Bà Võ Thị Ngọc Dung
- Thư ký phiên tòa: Bà Võ Thị Nhị Tứ- Thẩm tra viên Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Bà Bùi Ngô Ý Nhi – Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 02 năm 2025, tại điểm cầu trung tâm, trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng kết nối với điểm cầu thành phần, trụ sở Toà án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hành chính thụ lý số
452/2024/TLPT-HC ngày 19/11/2024 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 206/2024/HC-
ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 348/2025/QĐ-PT ngày
16 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Lê Đức T; địa chỉ: Số A đường T, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Hữu T1; địa chỉ: Số G đường Y,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố B;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Đại T2 – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố B, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích: Ông Phạm Văn N – Trưởng phòng Kỷ thuật,
giải phóng mặt bằng Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đắk Lắk, có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt.
2
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Hồ Thị T3;
+ Bà Lê Thị Ngọc Q;
+ Bà Lê Thị Ngọc V;
+ Bà Lê Thị Ngọc Q1;
+ Ông Lê Hoàng N1.
Cùng trú tại: Số A đường T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, các
đương sự này đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Người đại diện ủy quyền của người người khởi kiện, ông Trần Hữu T1 trình
bày:
Ông Lê Đức T là chủ sử dụng hợp pháp lô đất có diện tích rộng 232,6m
2
;
thuộc thửa đất số: 110, tờ bản đồ số 43, toạ lạc tại phường T, Tp ., tỉnh Đắk Lắk.
Đã được U cấp giấy CNQSD đất số BK 900766. Quá trình sử dụng đất, gia đình
ông T đã xây dựng nhà ở kiên cố sinh sống trên đất đến nay không có tranh chấp
với ai.
Thực hiện dự án “Hạ tầng kỹ thuật Khu đất phường T, thành phố B”, U đã
ban hành Quyết định số 7529 ngày 29/12/2023 thu hồi 154,5m
2
đất của gia đình
ông T đề thực hiện dự án nêu trên và kèm theo quyết định thu hồi đất, thì U cũng
ban hành Quyết định số 7503 phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất.
Theo đó, quyết định phê duyệt phương án bồi thường có rất nhiều hạng mục
công trình về vật, kiến trúc trên đất mà Nhà nước chỉ áp giá bồi thường cho gia
đình ông T với tỉ lệ 60% giá trị tài sản; Bên cạnh đó, đất của ông T nằm ngay trục
đường chính của đường T, P. T nhưng giá đất được bồi thường so với đất tái định
cư có sự chênh lệch lớn (số tiền mà gia đình ông T được bồi thường giá trị thấp
hơn đất mà Nhà nước tái định cư, không đủ để mua một suất tái định cư).
Ngoài ra, diện tích đất mà gia đình ông T đang sử dụng rất thuận lợi cho việc
kinh doanh, buôn bán. Nguồn sống chủ yếu của gia đình ông T (03 hộ) sống dựa
vào việc kinh doanh, buôn bán trên phần đất này, việc cơ quan chức năng thu hồi
đất, làm ảnh hưởng đến thu nhập nguồn sống của gia đình ông T nhưng không có
bất cứ khoản hỗ trợ nào về đời sống, sản xuất, chuyển đổi nghề là chưa phù hợp
với quy định pháp luật.
Do không đồng ý với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất, gia đình ông T đã có đơn khiếu nại. Tuy nhiên, đơn của gia đình ông
không được cơ quan chức năng xem xét giải quyết. Và mới đây, vào ngày
16/5/2024 U đã yêu cầu gia đình ông T bàn giao tài sản là QSD đất và tài sản trên
đất để thực hiện dự án.
Vì vậy, để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu
hồi. Nay ông T làm đơn này khởi kiện U, kính đề nghị Tòa án thụ lý giải quyết:
3
Tuyên hủy một phần Quyết định số 7503 ngày 29/12/2023 của U về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và buộc U xây
dựng lại phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mới cho gia đình tôi theo quy
định.
Người đại diện ủy quyền của Ủy ban nhân dân T, ông Lê Đại T2 trình bày:
Quá trình sử dụng đất, bồi thường GPMB đối với hộ ông Lê Đức T, bà Hồ
Thị T3: Hộ ông Lê Đức T sử dụng thửa đất số 110, tờ bản đồ 43, phường T, thành
phố B diện tích 198,8 m
2
, thuộc phạm vi thu hồi đất để thực hiện Dự án: Hạ tầng
kỹ thuật khu đất phường T, thành phố B. Phương án bồi thường, hỗ trợ cho gia
đình ông đã được UBND thành phố B phê duyệt tại Quyết định số 7503/QĐ-
UBND ngày 29/12/2023 với số tiền: 1.340.891.341 đồng (Số thứ tự 04, trang 14,
Bảng tính chi tiết đính kèm Quyết định số 7503), thu hồi đất tại Quyết định số
7529/QĐ-UBND ngày 29/12/2023, đồng thời gia đình ông Lê Đức T, bà Hồ Thị
T3 được Nhà nước giao 01 thửa đất tái định cư tại Quyết định số 7518/QĐ-UBND
ngày 29/12/2023, số tiền sử dụng đất phải nộp là 1.359.000.000 đồng.
Ngày 16/5/2024, hộ ông Lê Đức T đã bàn giao diện tích đất thu hồi cho Nhà
nước để thực hiện dự án, nhận tiền bồi thường hỗ trợ vào ngày 17/5/2024. Đến nay
đã hoàn thành việc kê khai, nộp tiền sử dụng đất và được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa đất tái định cư theo Quyết định số 7518/QĐ-UBND
ngày 29/12/2023 của UBND thành phố B.
Về căn cứ pháp luật, trình tự thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất:
- Quy định về bồi thường hỗ trợ: Áp dụng đúng theo quy định tại Quyết định
14/2022/QĐ-UBND, ngày 15/03/2022 của UBND tỉnh Đ về việc ban hành quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk; Quyết định 41/2021/QĐ-UBND, ngày 23/12/2021 của UBND tỉnh Đ về
việc ban hành quy định cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong việc thực
hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vì mục
đích quốc phòng an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Đơn giá bồi thường về đất: Giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường về đất cho
các hộ gia đình (trong đó có hộ ông Lê Đức T, bà Hồ Thị T3) đã được UBND
thành phố B phê duyệt tại Quyết định số 4285/QĐ-UBND ngày 25/7/2023 (trên
cơ sở Chứng thư định giá đất số 173/BĐS/2022/CT-TTA ngày 24/6/2022 của
Công ty cổ phần T6 đã được Hội đồng thẩm định giá đất thành phố B thống nhất
thông qua tại cuộc họp ngày 04/7/2023). Việc xây dựng, thẩm định, phê duyệt giá
đất cụ thể để tính tiền bồi thường về đất đã đảm bảo trình tự, thủ tục theo quy định
pháp luật.
Đơn giá bồi thường tài sản, vật kiến trúc, cây trồng và các khoản hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất: Số lượng, chất lượng, chủng loại các tài sản gắn liền trên
đất đã được Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk cùng các đơn vị có liên quan,
hộ gia đình cá nhân bị thu hồi đất thống kê, kiểm kê đầy đủ. Một số kiến nghị của
4
hộ gia đình về việc thiếu tài sản sau khi công khai dự thảo phương án đã được
Trung tâm, UBND phường T kiểm tra, bổ sung đầy đủ. Về đơn giá bồi thường tài
sản, các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đã được áp dụng đúng theo các quy
định pháp luật, cụ thể: Quyết định số 10/2020/QĐ-UBND, ngày 13/4/2020 của
UBND tỉnh Đ về việc ban hành quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ cây trồng trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk; Quyết định số 10/2023 ngày 10/3/2023 của UBND tỉnh Đ
về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết định số 10/2020/QĐ-UBND,
ngày 13/4/2020 của UBND tỉnh Đ về việc quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ cây
trồng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Quyết định 18/2023/QĐ-UBND, ngày 12/6/2023
của UBND tỉnh Đ về việc ban hành bảng giá xây dựng mới nhà ở, công trình xây
dựng, vật kiến trúc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Về lựa chọn vị trí thửa đất tái định cư: Ngày 13/12/2023, Trung tâm P1 đã
phối hợp cùng Phòng T7, Chính quyền địa phương phường T, 04 hộ dân có đất bị
thu hồi đủ điều kiện giao đất (trong đó có hộ ông Lê Đức T) để lựa chọn, xác định
vị trí giao đất tái định cư. Tại buổi làm việc, các đơn vị đã hướng dẫn, giới thiệu
đầy đủ các vị trí quỹ đất tái định cư, giải thích quyền lợi và nghĩa vụ của các hộ
gia đình khi Nhà nước giao đất. Trên cơ sở đó, hộ ông Lê Đức T đã thống nhất và
lựa chọn thửa đất ký hiệu LK02-27 tại khu tái định cư thuộc Dự án Hạ tầng kỹ
thuật khu đất phường T. Đến thời điểm hiện nay, gia đình ông đã nhận Quyết định
giao đất, hoàn thành việc kê khai nghĩa vụ tài chính và đã được Nhà nước cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất tái định cư nêu trên.
- Quy trình lập, thẩm định, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư: Trên cơ sở đơn giá bồi thường về đất, giá bồi thường về nhà, vật kiến trúc, cây
trồng và các khoản hỗ trợ, vị trí đất tái định cư do hộ gia đình lựa chọn, Trung tâm
phát triển quỹ đất Đắk Lắk đã lập, tổ chức công khai lấy ý kiến nhân dân về dự
thảo phương án bồi thường, hỗ trợ vào ngày 01/8/2023; đồng thời phối hợp cùng
UBND phường, UBMTTQ Việt Nam phường T tổ chức họp đối thoại, trả lời kiến
nghị của người dân vào ngày 14/9/2023. Hội đồng thẩm định phương án thành phố
B đã họp xem xét thẩm định vào các ngày 28/9/2023, 28/11/2023, 28/12/2023.
Liên ngành Tài nguyên Môi trường - Tài chính Kế hoạch thành phố đã có Tờ trình
số 678/TTr-LN ngày 28/12/2023 trình phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư và được UBND thành phố B phê duyệt tại Quyết định số 7503/QĐ-UBND
ngày 29/12/2023, đồng thời UBND thành phố B đã ban hành các Quyết định từ số
7526 đến 7536/QĐ-UBND ngày 29/12/2023 về việc thu hồi đất của các hộ gia
đình và 04 Quyết định về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất (trong đó có hộ ông
Lê Đức T). Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất đã được Trung tâm phát triẻn quỹ đất Đắk Lắk niêm yết công
khai và gửi trực tiếp cho người dân theo quy định.
- Các nội dung kiến nghị của gia đình ông Lê Đức T liên quan đến việc lập
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng
dự án Hạ tầng kỹ thuật khu đất tại phường T đã được UBND thành phố B trả lời
tại Công văn số 3696/UBND-TNMT ngày 19/7/2024 (trên cơ sở Báo cáo đề xuất
giải quyết đơn của Phòng Tài nguyên và Môi thành phố tại Báo cáo số 128/BC-
TNMT ngày 17/7/2024), Công văn số 1127/UBND-VP ngày 12/3/2024 (trên cơ
5
sở Báo cáo số 15/BC-TTPTQĐĐL ngày 11/3/2024 của Trung tâm phát triển quỹ
đất Đắk Lắk).
Về quan điểm của UBND thành phố đối với nội dung khởi kiện: Phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với ông Lê Đức T do Trung tâm phát triển quỹ
đất Đắk Lắk lập, được UBND thành phố B phê duyệt tại Quyết định số 7503/QĐ-
UBND ngày 29/12/2023 đã đảm bảo đúng trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật,
đồng thời đến nay hộ gia đình cũng đã nhận tiền bồi thường, bàn giao mặt bằng
thửa đất thu hồi cho Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk để triển Khai dự án. Do
đó, nội dung khởi kiện của ông Lê Đức T yêu cầu hủy một phần Quyết định số
7503/QĐ-UBND ngày 29/12/2023 của UBND thành phố B để lập lại phương án
mới cho gia đình ông là không có cơ sở xem xét, giải quyết.
Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xem xét, bác toàn bộ đơn khởi kiện
của ông Lê Đức T.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 206/2024/HC-ST ngày 27 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ Điều 30; Điều 32; Điều 115; khoản 1 Điều 143; Điều 116; Điều 165;
điểm b khoản 2 Điều 193 và Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính;
Áp dụng Khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 10; điểm b khoản 2 Điều 83; khoản
2 Điều 84; khoản 2 Điều 92 Luật đất đai năm 2013.
Áp dụng Điều 25 Luật cư trú;
Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 6; khoản 1 Điều 21 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều,
khoản của Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
khoản 5, 6 Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai; khoản 2
Điều 4 Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Đ;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Đức T;
[1.1]. Hủy một phần Quyết định số 7503/QĐ-UBND ngày 29/12/2023 của U
về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất để thực hiện dự án: Hạ tầng kỹ thuật khu đất tại phường T, thành phố B.
[1.2]. Buộc UBND thành phố B phải phê duyệt bổ sung phương án hỗ trợ tái
định cư mới cho gia đình ông Lê Đức T theo quy định.
[1.3] Đình chỉ yêu cầu khởi kiện về yêu cầu xem xét lại giá đất được bồi
thường so với đất tái định cư có sự chênh lệch lớn, không đủ mua một thửa đất tái
định cư.
6
[1.4] Bác yêu cầu khởi kiện về buộc UBND thành phố B phải phê duyệt bổ
sung phương án yêu cầu bồi thường công trình về vật, kiến trúc trên đất nông
nghiệp và hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho gia đình ông Lê Đức
T.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm có tuyên và án phí, quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 22/10/2023, UBND thành phố B kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc
thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người
khởi kiện.
Ngày 11/10/2024, ông Lê Đức T kháng cáo, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tại phiên
toà phúc thẩm:
Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các
quy định của Luật Tố tụng hành chính trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Về nội
dung: Toà án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án có căn cứ và đúng pháp luật; kháng
cáo của người khởi kiện và của người bị kiện không có cơ sơ, đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính: Bác
kháng cáo, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình
bày, tranh luận của đương sự và xem xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát,
Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, ông Trần Hữu T1 là người đại diện
theo uỷ quyền của người khởi kiện ông Lê Đức T không rút đơn khởi kiện và giữ
nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận
toàn bộ nội dung đơn khởi kiện. Kháng cáo của người bị kiện UBND thành phố
B, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi
kiện.
[2] Ông Lê Đức T kháng cáo, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét chấp
nhận thêm hai nội dung khởi kiện của ông: đó là xem xét chấp nhận khoản bồi
thường 100% giá trị công trình về vật kiến trúc xây dựng trên đất nông nghiệp và
xem xét về khoản hỗ trợ chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm. Xét nội dung kháng
cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
[2.1] Về yêu cầu bồi thường 100% giá trị công trình về vật, kiến trúc xây
dựng trên đất nông nghiệp:
Khoản 1 Điều 6 Luật đất đai quy định
Điều 6. Nguyên tắc sử dụng đất
1. Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đúng mục đích sử dụng đất
Khoản 1 Điều 10 Luật đất đai quy định:
7
Điều 10. Phân loại đất
Căn cứ vào mục đích sử dụng, đất đai được phân loại như sau:
1. Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất sau đây:
a) Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm
khác;
b) Đất trồng cây lâu năm;
c) Đất rừng sản xuất;
d) Đất rừng phòng hộ;
đ) Đất rừng đặc dụng;
e) Đất nuôi trồng thủy sản;
g) Đất làm muối;
h) Đất nông nghiệp khác gồm đất sử dụng để xây dụng nhà kính và các loại
nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt không trực
tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động
vật khác được pháp luật cho phép; đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản
cho mục đích học tập, nghiên cứu thí nghiệm; đất ươm tạo cây giống, con giống
và đất trồng hoa, cây cảnh;
Khoản 2 Điều 92 Luật đất đai 2013 quy định:
Điều 92. Trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường tài sản
gắn liền với đất.
2. Tài sản gắn liền với đất được tạo lập trái quy định của pháp luật hoặc tạo
lập từ sau khi có thông báo thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, căn cứ theo các quy định nêu trên, hành vi xây nhà, vật kiến trúc
trên đất trên đất nông nghiệp là tài sản được tạo lập trái quy định pháp luật, do vậy
trường hợp bị thu hồi đất nông nghiệp sẽ không được bồi thường về nhà, vật kiến
trúc trên đất; hộ ông Lê Đức T đã được hỗ trợ theo từng thời điểm tạo lập tài sản
theo quy định tại Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND, ngày 15/03/2022 của UBND
tỉnh Đ về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk là đúng quy định của pháp luật. Tại phiên
toà phúc thẩm, ông Trần Hữu T1 thừa nhận ông Lê Đức T chưa được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích đất sử dụng từ đất nông nghiệp
sang đất thổ cư. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của
người khởi kiện là có căn cứ.
[2.2] Về yêu cầu khởi kiện chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm:
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Trần Hữu T1 xác định
gia đình ông Lê Đức T không canh tác trực tiếp trên đất nông nghiệp, từ khi nhận
chuyển nhượng đất từ bà Võ Thị S gia đình ông T, bà T3 làm nghề làm bánh tráng;
đến năm 2022, bà Q cưới chồng thì ông T có mở 01 cửa hàng nail và makup trên
thửa đất bị thu hồi.
8
Xét thấy:
Hộ gia đình ông Lê Đức T không trực tiếp sản xuất nông nghiệp nên không
được hỗ trợ đào tạo, chuyền đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu
hồi đất nông nghiệp theo điểm b khoản 2 Điều 83 Luật đất đai năm 2013;
Ngày 19/9/2024, ông Lê Đức T cung cấp 01 đơn xin xác nhận của ban tự
quản thôn buôn về việc từ năm 2009 đến nay, gia đình ông Lê Đức T có duy trì
nghề làm bánh tráng nhưng không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền (tại phiên toà phúc thẩm, ông Trần Hữu T1 thừa nhận đơn này chưa được
UBND phường sở tại xác nhận), ngoài ra người khởi kiện cũng không cung cấp
thêm tài liệu nào khác nên không có cơ sở xem xét hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề
và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ
theo quy định tại khoản 2 Điều 84 Luật đất đai năm 2013.
Vì vậy, yêu cầu khởi kiện hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm không
có cơ sở chấp nhận.
[3] Người bị kiện UBND thành phố B kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc
thẩm xem xét bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện. Xét thấy rằng,
trong 4 nội dung yêu cầu khởi kiện, người khởi kiện đã rút nội dung về xem xét
chênh lệch giữa giá đất được bồi thường và giá đất tái định cư, Toà án cấp sơ thẩm
đã đình chỉ. Còn lại Toà án cấp sơ thẩm xử bác hai nội dung (như phân tích trên),
chỉ chấp nhận một nội dung về giao đất tái định cư. Nay UBND thành phố B kháng
cáo đề nghị bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì đất số 110, tờ bản đồ số 43,
diện tích 198,8m
2
, trong đó có 40m
2
đất ở 158,8m
2
đất trồng cây hàng năm, tại
phường T, thành phố B, quyền sử dụng đất đứng tên hộ bà Võ Thị S đã chuyển
nhượng cho ông Lê Đức T và bà Hồ Thị T3 có xác nhận của cơ quan có thẩm
quyền vào ngày 10/8/2012. Ngày 29/12/2023, UBND thành phố B ban hành Quyết
định số: 7529/QĐ-UBND thu hồi 40m
2
đất ở và 93m
2
đất trồng cây hàng năm của
gia đình ông Lê Đức T, để thực hiện dự án hạ tầng kỹ thuật khu đất phường T,
thành phố B. Hộ gia đình ông Lê Đức T, bà Hồ Thị T3 được Nhà nước giao 01
thửa đất tái định cư tại Quyết định số 7518/QĐ-UBND ngay 29/12/2023, đã hoàn
thành việc kê khai, nộp tiền sử dụng đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa đất tái định cư.
Ngày 25/9/2024, trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh cung cấp 01 công văn đề
ngày 27/12/2023 (bản phô tô) của Công an phường T, thành phố B trả lời công
văn số 346/TTPTQĐĐL-KTGPMB ngày 27/12/2023 của Trung tâm phát triên quỹ
đất tỉnh Đắk Lắk về việc đề nghị xác minh cung cấp thông tin nhân khẩu của 10
hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất để thực hiện dự án: Hạ tầng kỹ thuật Khu đất
phường T, thành phố B (theo danh sách đính kèm).
Hộ gia đình ông Lê Đức T, gồm có ông và các thành viên: bà Hồ Thị T3 (vợ);
bà Lê Thị Ngọc Q (con); bà Lê Thị Ngọc V1 (con); bà Lê Thị Ngọc Q1 (con);
Huỳnh Lê Bảo T4 (con bà Lê Thị Ngọc V1); cháu Nguyễn Lê Khả Á (con bà Lê
Thị Ngọc V1); Các con của ông Lê Đức T, là bà Lê Thị Ngọc V1 (có hai người
9
con là cháu Huỳnh Lê Bảo T4 và cháu Nguyễn Lê Khả Á, hiện đã ly hôn chồng)
và bà Lê Thị Ngọc Q (có một người con là cháu Lê Bảo N2 và chồng là ông Lê
Hoàng N1); bà Lê Thị Ngọc V1 và bà Lê Thị Ngọc Q có đủ điều kiện để tách hộ
theo quy định tại Điều 25 Luật cư trú;
Trong quá trình giải quyết vụ án, Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh P1 cung
cấp Công văn số 22/UBND-ĐC ngày 11/02/2022 của UBND phường T về việc
phúc đáp Công văn của 271/TTPTQĐĐL-KTTTĐĐ tháng 10 năm 2021 về cung
cấp thông tin nơi ở của 04 hộ gia đình tại ông Lê Đức T; nội dung của công văn
thể hiện: “Qua kiểm tra dữ liệu hiện có theo phần mềm hệ thống thông tin đất đai
ViLis 2.0 tại UBND phường T chưa tìm thấy dữ liệu đăng ký đất đai đối với: ...
ông Lê Đức T, bà Hồ Thị T3, bà Lê Thị Ngọc Q, bà Lê Thị Ngọc V1, bà Lê Thị
Ngọc Q1, ...”
Như vậy có cơ sở xác định trước khi bị thu hồi đất, hộ gia đình ông T, có
nhiều thế hệ cùng chung sống trên thửa đất bị thu hồi; Nhà nước đã thu hồi gần
hết diện tích đất của hộ gia đình ông T và gia đình ông T không còn thửa đất nào
khác trên địa bàn thửa đất bị thu hồi. Căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 79
Luật đất đai năm 2013 và điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Ngoài thửa đất tái định cư được giao cho hộ gia
đình ông Nguyễn Đức T5 thì các thành viên hộ gia đình ông T5, đủ điều kiện được
giao thửa đất tái định cư, theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số:
47/2014/NĐ-CP và khoản 2 Điều 4 Quyết định số: 14/2022/QĐ-UBND ngày
15/3/2022 của UBND tỉnh Đ.
Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của
ông Lê Đức T là có căn cứ.
Từ những phân tích, nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy
rằng, Toà án cấp sơ thẩm xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê
Đức T, hủy một phần Quyết định số 7503/QĐ-UBND ngày 29/12/2023 của U về
việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
để thực hiện dự án: Hạ tầng kỹ thuật khu đất tại phường T, thành phố B và buộc
U xây dựng lại phương án tái định cư mới cho gia đình ông Lê Đức T theo quy
định, là có căn cứ, đúng pháp luật; kháng cáo của người khởi kiện và kháng cáo
của UBND thành phố B không có căn cứ, không có tài liệu chứng cứ mới làm thay
đổi bản chất nội dung vụ án nên không được chấp nhận. Hội đồng xét xử phúc
thẩm bác kháng cáo, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí
phúc thẩm hành chính theo quy định.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
10
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính: Bác kháng cáo của
người khởi kiện ông Lê Đức T và kháng cáo của người bị kiện UBND thành phố
B, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
Căn cứ Điều 30; Điều 32; Điều 115; khoản 1 Điều 143; Điều 116; Điều 165;
điểm b khoản 2 Điều 193 và Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính;
Áp dụng Khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 10; điểm b khoản 2 Điều 83; khoản
2 Điều 84; khoản 2 Điều 92 Luật Đất đai năm 2013.
Áp dụng Điều 25 Luật cư trú;
Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 6; khoản 1 Điều 21 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều,
khoản của Luật Đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất; khoản 5, 6 Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai;
khoản 2 Điều 4 Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Đ;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Đức T;
[1.1]. Hủy một phần Quyết định số 7503/QĐ-UBND ngày 29/12/2023 của U
về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất để thực hiện dự án: Hạ tầng kỹ thuật khu đất tại phường T, thành phố B.
[1.2]. Buộc UBND thành phố B phải phê duyệt bổ sung phương án hỗ trợ tái
định cư mới cho gia đình ông Lê Đức T theo quy định.
[1.3] Đình chỉ yêu cầu khởi kiện về yêu cầu xem xét lại giá đất được bồi
thường so với đất tái định cư có sự chênh lệch lớn, không đủ mua một thửa đất tái
định cư.
[1.4] Bác yêu cầu khởi kiện về buộc UBND thành phố B phải phê duyệt bổ
sung phương án yêu cầu bồi thường công trình về vật, kiến trúc trên đất nông
nghiệp và hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho gia đình ông Lê Đức
T.
[4] Về án phí phúc thẩm hành chính:
- Ủy ban nhân dân thành phố B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)
án phí hành chính phúc thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền đã nộp 300.000
đồng tại Biên lai thu tạm ứng án phí số 0014163 ngày 31/10/2024 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk (do Phạm Thanh P nộp thay U).
- Ông Lê Đức T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành
chính phúc thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp theo Biên
11
lai thu tạm ứng án phí số tạm ứng án phí 0014160 ngày 29/10/2024 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk, do Lê Đức T nộp.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đ;
- VKSND tỉnh Đ;
- Cục THADS tỉnh Đ;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P.HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Cường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 77/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm