Bản án số 123/2025/DS-PT ngày 25/04/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 123/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 123/2025/DS-PT ngày 25/04/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Sóc Trăng
Số hiệu: 123/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: - Nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 123/2025/DS-PT
Ngày: 25/4/2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay
tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Quốc Định.
Các Thẩm phán: Bà Tăng Thị Thúy Nga.
Ông Nguyễn Văn Dũ.
- Thư ký phiên tòa: Thị Thanh Xuân – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Bà Dương Thị Ngọc Bích - Kiểm sát viên.
Trong ngày 25/4/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử
phúc thẩm công khai ván thụ số 89/2025/TLPT-DS, ngày 06 tháng 3 năm
2025, về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 113/2024/DS-ST, ngày 22 tháng 11 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 122/2025/QĐ-PT ngày
21 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu P, sinh năm 1972. Địa chỉ: Số E, đường
T, Khóm D, Phường H, thành phố C, tỉnh Cà Mau. (Có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Lê Văn N, sinh năm 1955. Địa chỉ: Ấp H, thị trấn M, huyện M, tỉnh
Sóc Trăng. (Vắng mặt).
2. Huỳnh Thị N1, sinh năm 1953. Địa chỉ: Ấp H, thị trấn M, huyện M,
tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt).
3. Ông Thanh T, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp H, thị trấn M, huyện M, tỉnh
Sóc Trăng. (Vắng mặt).
4. Ông Thanh T1, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp H, thị trấn M, huyện M,
tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt).
2
5. Ông Thanh Q, sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp H, thị trấn M, huyện M, tỉnh
Sóc Trăng. (Có mặt).
6. Ông Thanh C, sinh năm 1994. Địa chỉ: Ấp H, thị trấn M, huyện M, tỉnh
Sóc Trăng. (Vắng mặt).
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Thị Đ (Thị Đ1), sinh năm
1974. Địa chỉ: Số D, đường N, Khóm F, Phường E, thành phố C, tỉnh Mau.
(Có mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, nội dung vụ án, quyết định bản
án sơ thẩm và nội dung kháng cáo được tóm tắt như sau:
* Nguyên đơn trình bày: Trước đây, bà Lê Thị Đ (tức Đ) con gái ruột của
ông Văn N Huỳnh Thị N1 nợ P số tiền 635.000.000 đồng, trong
đó có 200.000.000 đồng (hai trăm triệu) là vay dùm cho gia đình ông N1, N1
để chuộc Giấy CNQSDĐ đã cầm cố hết hạn và chi dùng trong gia đình.
Ngày 18/12/2017, ông Lê Văn N đã thống nhất với vợ và các con gồm Lê
Thanh T, Thanh T1, Thanh Q1, Thanh C đứng ra lãnh số tiền là
200.000.000 đồng (hai trăm triệu) thỏa thuận trong thời hạn 40 tháng sẽ trả tiền
cho bà P cùng với lãi phát sinh là 0,1% /tháng. Hai bên có lập hợp đồng vay tiền
thế chấp Giấy CNQSDĐ số Đ561978 thửa đất số 75 tờ bản đồ 63 diện tích
2.432,2 m
2
toạ lạc tại ấp H thị trấn M, huyện M.
Tuy nhiên sau thời điểm đó cho đến nay, hộ ông N không trả cho P đồng
nào. Nay bà P yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên buộc hộ ông Lê Văn N
gồm: Ông Văn N, bà Huỳnh Thị N1; anh Lê Thanh T, anh Lê Thanh T1, anh
Lê Thanh Q, anh Lê Thanh C có trách nhiệm liên đới trả cho bà Nguyễn Thị Thu
P số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu) nói trên cùng với số tiền lãi tính từ
thời điểm vay ngày 18/12/2017 cho đến ngày 17/6/2021 là 40 tháng theo mức lãi
suất thoả thuận tại hợp đồng vay là 0,1 %/tháng với số tiền lãi là 8.000.000 đồng.
Tiền lãi suất phát sinh nh từ ngày 18/6/2021 đến ngày 19/11/2024 55 tháng
theo mức lãi suất quy định của pháp luật 0,83 %/tháng với số tiền 99.300.000
đồng. Tổng cộng tiền vốn lãi yêu cầu phía bị đơn phải thanh toán là
299.300.000 đồng. Nếu các bị đơn không thanh toán thì nguyên đơn quyền yêu
cầu quan thẩm quyền xử tài sản thế chấp quyền sử dụng đất số Đ561978
thuộc thửa đất số 75, tờ bản đồ 63 toạ lạc tại ấp H, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc
Trăng cấp cho hộ ông Lê Văn N ngày 29/6/2004 để trả nợ.
- Đối với các bị đơn gồm: Ông Lê Văn N, Huỳnh Thị N1, anh Lê Thanh
T, anh Thanh T1, anh Thanh Q, anh Thanh C: Tòa án đã thông báo về
việc thụ lý vụ án, tống đạt các văn bản tố tụng cho nhưng người này không văn
bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn gửi Tòa án. Tòa
án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ phiên hòa giải, triệu tập hợp lệ bị đơn để tham gia nhưng các bị đơn vắng
3
mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải
không có lý do. Tòa án thông báo kết quả công bố công khai chứng cứ và tiếp tục
thông báo phiên hòa giải, triệu tập hợp lệ bị đơn lần hai để tham gia nhưng tại
phiên hòa giải những người này vẫn vắng mặt không do nên không tiến hành
hòa giải được. Do đó, Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo trình tự quy
định của pháp luật.
Tại phiên tòa Nguyễn Thị N2 trình bày: không vay tiền của bà
Nguyễn Thị Thu P, vào khoảng năm 2017 bà P có đến nhà bà tại ấp H, thị trấn M
nói là con của Thị Đ thiếu tiền của Nguyễn Thị Thu P nên
yêu cầu N2 đưa giấy chứng nhận quyền sdụng đất nhà cho T2 Phương giữ
để khi nào bà Lê Thị Đ trả hết tiền cho P thì bà P trả lại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất lại. Vì vậy bà N2 đã đưa Giấy CNQSDĐ số Đ561978 thửa đất số 75
tờ bản đồ 63 diện tích 2.432,2 m
2
toạ lạc tại ấp H, thị trấn M, huyện M cho Thu
P. P có làm giấy tờ nói đồng ý cho T2 Phương giữ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất kêu những người trong gia đình N2 đến Văn phòng Công
chứng Trần Ngân B để vào văn bản. Do không biết chữ nên không biết
được nội dung trong văn bản viết gì, đến nay bà Nguyễn Thị Thu P khởi kiện cho
rằng gia đình bà thế chấp quyền sử dụng đất cho P để vay số tiền
200.000.000 đồng từ năm 2017 đến nay chưa trả vốn lãi không đúng.
Nguyễn Thị N2 cho rằng không vay cũng không nhận tiền của P
nên không đồng ý thanh toán số tiền 200.000.000 đồng tiền lãi theo yêu cầu
của phía nguyên đơn.
Tại phiên toà các bị đơn ông Lê Thanh T1, Lê Thanh Q, Lê Thanh C trình
bày: Không có vay tiền của bà P, số tiền 200.000.000 đồng là tiền của bà Lê Thị
Đ thiếu bà P. Do Thị Đ con ruột của ông Văn N Huỳnh Thị N1 nên
Nguyễn Thị Thu P đến nhà nói là Lê Thị Đ có chơi hụi của P thiếu tiền
của P chưa trả nên yêu cầu ông Văn N bà Huỳnh Thị N1, đưa giấy chứng
nhận QSD đất do ông Lê Văn N đứng tên đưa cho bà P giữ để bảo đảm cho
Thị Đ trả nợ, khi nào bà Đ đóng hết hụi thì bà P trả giấy chứng nhận QSD đất lại
cho Lê Văn N. Ông Lê Thanh T1, Lê Thanh Q, Lê Thanh C không có vay tiền
của bà Nguyễn Thị Thu P, do là con trong gia đình của ông Lê Văn N nên bà P
kêu các ông đến Phòng công chứng Trần Ngân B để tên vào văn bản, nhưng
không biết và không có đọc nội dung của văn bản, chỉ nghe nói là đồng ý giao
giấy chứng nhận cho P giữ để cho Lê Thị Đ trả nợ, không biết là ký o hợp
đồng vay tiền của P. Ông Thanh T1, Thanh Q, Thanh C không
vay và cũng không có nhận tiền gì của bà P nên không đồng ý thanh toán số tiền
200.000.000 đồng và tiền lãi theo yêu cầu của phía nguyên đơn.
- Đối với người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Thị Đ: Ngày
23/10/2024 đơn tường trình bày bà Đ chơi hụi của Nguyễn Thị Thu P do
làm ăn thất bại hiện nay còn nợ tiền của bà P. Số tiền 200.000.000 đồng mà bà P
yêu cầu phía bị đơn trả là tiền bà mà bà Đ chơi hụi còn nợ của bà P. Ông Lê Văn
N, Huỳnh Thị N1, ông Thanh T, ông Thanh T1, ông Thanh Q, ông
Thanh C cùng tên vào hợp đồng vay tiền là đồng ý giao giấy chứng nhận
QSDĐ số Đ 561978 thửa đất s75, tờ bản đồ số 63, diện tích 2.432,2m
2
tọa lạc
4
tại ấp H, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng do UBND huyện M cấp cho hộ ông
Lê Văn N đứng tên cho bà P giữ để đảm bảo cho bà Đ thời gian trả tiền cho
P khi nào bà Đ đóng hết hụi thì trả giấy chứng nhận lại cho cha mẹ bà Đ. Khi ký
thì không đọc hợp đồng, sau này tbiết đó hợp đồng vay tiền. Đ thừa
nhận bà là người tiền của bà P, ông Lê Văn N, bà Huỳnh Thị N1, ông T, ông T1,
ông Q và ông C không có vay tiền 200.000.000 đồng của bà P.
Tại phiên toà ngày 22/11/2024 bà Lê Thị Đ khẳng định số tiền 200.000.000
đồng P khởi kiện yêu cầu các bị đơn phải thanh toán theo hợp đồng vay
ngày 18/12/2017 là số tiền mà bà Lê Thị Đ còn nợ P do chơi hụi trước đó. Các
bị đơn ông Lê Văn N, bà Huỳnh Thị N1, anh Lê Thanh T, anh Lê Thanh T1, anh
Lê Thanh Q, anh Lê Thanh C ký vào hợp đồng vay tại Văn phòng công chứng là
đồng ý giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Thu P giữ
để đảm bảo cho bà Lê Thị Đ có thời gian trả nợ cho bà P, khi nào bà Đ trả hết nợ
cho P thì sẽ trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các bị đơn không
nhận tiền từP. Số tiền ghi trong hợp đồng vay là số tiền mà bà Lê Thị Đào C1
hụi còn nợ lại ca bà Nguyễn Thị Thu P.
* Sự việc được Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng thụ lý,
giải quyết. Tại Bản án sơ thẩm số 113/2024/DS-ST, ngày 22 tháng 11 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 266, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 B luật Dân sự 2015;
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu P
về việc buộc các bị đơn ông Lê Văn N, Huỳnh Thị N1, ông Lê Thanh T, ông
Lê Thanh T1, ông Thanh Q, ông Thanh C nghĩa vụ liên đới thanh toán
số tiền nợ 299.300.000 đồng trong đó tiền vốn 200.000.000 đồng và lãi suất phát
sinh 99.300.000 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm và thông báo
quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.
* Ngày 05/12/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị Thu P kháng cáo toàn bộ
Bản án sơ thẩm nêu trên và yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử theo hướng buộc các bị
đơn trả cho số tiền gốc 200.000.000 đồng, số tiền lãi trong hạn 8.000.000
đồng (0,1% x 40 tháng), số tiền lãi trên số tiền lãi trong hạn chậm trả là 164.000
đồng (0,05% x 41 tháng), số tiền lãi quá hạn 12.300.000 đồng (0,1% x 150% x 41
tháng). Tổng cộng là 220.454.000 đồng.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu đơn khởi kiện
đơn kháng cáo, các bị đơn giữ nguyên ý kiến, một số bị đơn vắng mặt, người
5
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ginguyên ý kiến. Các đương sự không thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng:
Trong quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc
thẩm thì Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố
tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa các quy
định pháp luật liên quan đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn, áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 giữ nguyên
Bản án sơ thẩm ca Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án, được thẩm tra các
chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, ý kiến phát biểu và đề nghị
của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tính hợp lcủa đơn kháng cáo và phạm vi xét xử phúc thẩm: Người
kháng cáo, nội dung và hình thức đơn kháng cáo, thời hạn kháng cáo của nguyên
đơn đúng theo quy định tại Điều 271, Điều 272 Điều 273 Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2015, kháng o hợp l đúng theo luật định, nên vụ án được xét
xử theo trình tphúc thẩm đối với nội dung kháng cáo và các vấn đề có liên quan
đến việc kháng cáo.
[2] . Về sự mặt, vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên
tòa bị đơn ông N1, ông T, ông C đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần
thứ hai nhưng vắng mặt không do. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều
227 Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với những người
trên.
[3]. Xét kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Trong quá trình giải quyết tại cấp thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm
nguyên đơn cho rằng bà Lê Thị Đ có nợ bà số tiền 635.000.0000 trong đó có vay
dùm gia đình của ông n N Huỳnh Thị N1 số tiền 200.000.000 đồng
thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0669/QSDĐ, thửa đất số 75,
tờ bản đồ số 63, đất tọa lạc tại ấp H, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng do Ủy
ban nhân dân huyện M cấp cho hộ ông Văn N đứng tên, nhưng nguyên đơn
cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh số tiền 200.000.000 đồng là bà
Thị Đ vay m cho các bị đơn, cũng như cung cấp chứng cứ chứng minh
bị đơn ông N cùng các bị đơn khác trong vụ án có nhận khoản tiền vay
200.000.000 đồng từ phía nguyên đơn, trong c bị đơn người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không thừa nhận.
[4]. Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, nguyên đơn cung
cấp chứng cứ là hợp đồng vay tiền ngày 18/12/2017. Xét nội dung của hợp đồng
vay tiền này thấy rằng, tại hợp đồng công chứng viên chứng nhận hợp đồng vay
tiền được giao kết giữa các bên chứ không chứng nhận việc giao tiền giữa
6
nguyên đơn và các bị đơn, trong hợp đồng này các bên cũng không thể hiện là đã
giao nhận đủ số tiền 200.000.000 đồng, ngoài ra trong hợp đồng vay tiền này cũng
không điều khoản nào thể hiện các bị đơn bảo lãnh số tiền 200.000.000 đồng
cho Đ, trong khi tại biên bản xác minh ngày 20/11/2024 đối với Công chứng
viên Văn phòng C2 xác định tại thời điểm công chứng, công chứng viên không
thấy các bên có giao nhận tiền cho nhau
[5]. Như vậy đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng
như tại đơn khởi kiện ngày 20/5/2023 nguyên đơn cũng thừa nhận bà Lê Thị Đ
nợ nguyên đơn số tiền là 635.000.000 đồng phù hợp với chứng cứ mà nguyên
đơn cung cấp kèm theo đơn khởi kiện cho Toà án tờ giấy nhận nợ của bà
Thị Đ nội dung thể hiện từ ngày 15/4/2016 đến ngày 30/5/2017 Đ vay
của P số tiền tổng cộng 635.000.000 đồng, lãi suất 1,8%/tháng phù hợp
với với lời trình bày của Thị Đ nợ tiền của nguyên đơn P số tiền
200.000.000 đồng. Tđó Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là có căn cứ.
[6]. Từ những căn cnêu trên, thấy rằng kháng cáo của nguyên đơn
không có căn cứ, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[7]. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đnghị không chấp nhận kháng o của
nguyên đơn, áp dụng khoản 1 Điều 308 B luật Tố tụng dân sự giữ nguyên Bản
án sơ thẩm là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn không được
chấp nhận nên phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.
[9]. Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét và có hiệu lực pháp luật kể từ
thời điểm hết hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 273 và Điều 280
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 và khoản 6 Điều 313 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-
12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo ca nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu P. Giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 113/2024/DS-ST ngày 22/11/2024 của Tòa án
nhân dân huyện M Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
2. Về án phí phúc thẩm: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng, phần tiền này
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là 300.000 đồng đã nộp theo
biên lai thu tiền số 0008312 ngày 05/12/2024 của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
7
3. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án, người
phải thi nh án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,
7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014), thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án n sự (sửa
đổi, bổ sung năm 2014).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND huyện Mỹ Xuyên;
- Chi cục THADS huyện Mỹ Xuyên;
- Các đương sự;
- Phòng KTNV-TAT;
- Lưu VP, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Quốc Định
Tải về
Bản án số 123/2025/DS-PT Bản án số 123/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 123/2025/DS-PT Bản án số 123/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất