Bản án số 12/2023/HS-ST ngày 03/02/2023 của TAND huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 12/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 12/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 12/2023/HS-ST ngày 03/02/2023 của TAND huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi |
---|---|
Tội danh: | 146.Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Đại Từ (TAND tỉnh Thái Nguyên) |
Số hiệu: | 12/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 03/02/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 12/2023/HS-ST NGÀY 03/02/2023 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Trong ngày 03 tháng 02 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 162/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 164/2022/QĐXXST - HS, ngày 23 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Chu Văn V (Tên gọi khác: Không) Sinh ngày 14 tháng 6 năm 1981 Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố Vân Long, TT Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
Chỗ ở hiện nay: Xóm Đ, xã T, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam;
Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: Không.
Con ông Chu Văn M, sinh năm 1932 (đã chết) và bà Hứa Thị H, sinh năm 1934. Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình Vợ: Trần Thị Th, sinh năm 1988 và có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2014.
Tiền án; Tiền sự: Không.
Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam, hiện đang tại ngoại tại địa phương nơi cư trú và có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Cháu Bùi Ngọc M, sinh năm 2012 (Có mặt) Trú tại: Xóm Đ, xã T, huyện , tỉnh Thái Nguyên.
Người đại diện theo pháp luật cho bị hại cháu M: Chị Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1993, là mẹ đẻ cháu M (Có mặt).
Người có QLNVLQ: Chị Trần Thị Th, sinh năm 1988 (Có mặt). Trú tại: Xóm Đ, xã T, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
Người làm chứng:
1. Cháu Bùi Gia B, sinh năm 2015 (Vắng mặt) Trú tại: Xóm Đ, xã T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
Người đại diện theo pháp luật cho người làm chứng cháu B: Chị Nguyễn Thị Tuyết Nh, sinh năm 1993, là mẹ đẻ cháu B (Có mặt)
2. Cháu Chu Phương Nh, sinh năm 2014 (Có mặt) Trú tại: Xóm Đ, xã T, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
Người đại diện theo pháp luật cho người làm chứng cháu Nh: Chị Trần Thị Th, sinh năm 1988 (Có mặt).
Trú tại: Xóm Đ, xã T, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 16/6/2022, Chu Văn V cùng với cháu Bùi Ngọc M, sinh ngày 29/8/2012, cháu Bùi Gia Bảo, sinh ngày 29/3/2015 (là em của cháu M, cùng trú tại xóm Đồng Mạc, xã Tiên Hội, huyện Đại Từ) và cháu Chu Phương Nh, sinh ngày 21/11/2014 (là con gái của V) đi soi cua ở mương nước tại cánh đồng thuộc xóm Đồng Mạc, xã Tiên Hội, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Khi đi soi cua, cháu B và cháu Nh cầm túi nilong đứng trên đường bê tông, còn V và cháu M đứng dưới bờ ruộng cùng quay mặt vào phía đường bê tông để soi cua dưới mương nước. V và 03 cháu nhỏ soi cua đến khoảng 21 giờ cùng ngày, thì dương vật của V cương cứng nên V nảy sinh ham muốn động chạm vào cơ thể của cháu M để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình. Lúc này cháu M đang đứng cạnh phía bên tay trái của V, tay phải V cầm đèn pin để soi cua, V vòng tay trái ra phía sau sờ, xoa vào mông bên trái ở ngoài quần của cháu M khoảng 02-04 giây rồi V bỏ tay ra, sau đó V và cháu M, cháu Nh, cháu B tiếp tục soi cua đến gần 22 giờ cùng ngày thì đi về nhà V, sau đó cháu M, cháu B đi về nhà của mình. Sáng ngày 17/6/2022, cháu M và cháu B lại sang nhà V chơi với cháu Nh, đến khoảng 10 giờ, V đi từ khu vực chăn nuôi gà của gia đình vào nhà thì V nhìn thấy cháu Nh, cháu B và cháu M đang ngồi chơi trong bếp nhà V, V đi đến chỗ cháu M rồi kéo dắt tay cháu M vào nhà tắm, chốt cửa bên trong mục đích để nhìn ngắm cháu M. Thấy V chốt cửa thì cháu M gọi to “Nh ơi cứu chị với” thì V đã mở cửa cho cháu M đi ra.
Sau khi sự việc xảy ra cháu M đã kể lại sự việc cháu M bị V sờ vào mông và kéo vào nhà tắm cho chị Nguyễn Thị Tuyết N (là mẹ đẻ của cháu M) biết, ngày 18/6/2022, chị Nhung làm đơn trình báo tới Công an xã Tiên Hội, huyện Đại Từ đề nghị giải quyết. Sau khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đại Từ đã tiến hành kiểm tra xác minh, triệu tập Chu Văn V đến làm việc và tạm giữ 01 quần dài bằng vải màu đen; 01 chiếc quần lót nam giới; 01 áo cộc tay màu xanh (V mặc trên người tối ngày 16/6/2022), niêm phong vào bì kí hiệu PS2 2111903. Tiến hành trưng cầu giám định pháp y về tình dục đối với cháu Bùi Ngọc M và Chu Văn V.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 46/TD ngày 21/6/2022 của Trung tâm pháp y Sở y tế Thái Nguyên kết luận: Các dấu vết thu thập được đối với cháu M: Màng trinh chưa có vết rách.
Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 47/TD ngày 08/7/2022 của Trung tâm pháp y Sở y tế Thái Nguyên kết luận đối với Chu Văn V:
Các dấu vết thu thập được: Sau khi áp dụng nghiệp vụ thăm khám cho đối tượng xem ảnh, xem phim, tự kích thích, kết quả: Dương vật có khả năng cương cứng, đo dương vật KT (Chu vi 8,5cm, dài 9,5cm). Dương vật của Chu Văn V hiện tại có khả năng tình dục.
Tại cơ quan điều tra Chu Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên. Lời khai của V phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác do Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, kết luận giám định, lời khai của bị hại.
Về trách Nhệm dân sự: Gia đình và Chu Văn V đã tự nguyện bồi thường cho gia đình cháu M số tiền 10.000.000 đồng, người đại diện của cháu M không có yêu cầu đề nghị gì về phần dân sự.
Vật chứng của vụ án gồm:
+ 01chiếc quần vải màu đen, 01 chiếc quần lót nam giới; 01 chiếc áo phông cộc tay màu xanh, niêm phong trong bì kí hiệu PS2 2111903, hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đại Từ chờ xử lý.
Bản cáo trạng số 02/CT-VKSĐT ngày 19/12/2022 của Viện kiểm sát nhân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Chu Văn V phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
Kết thúc phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng, đã luận tội đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Chu Văn V phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
Áp dụng khoản 1 Điều 146 BLHS, các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 47 và Điều 38 BLHS năm 2015; Điều 106 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Xử phạt: Bị cáo Chu Văn V từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam.
Về dân sự: Không xem xét.
Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc quần vải màu đen, 01 chiếc quần lót nam giới, 01 chiếc áo phông cộc tay màu xanh, niêm phong trong bì kí hiệu PS2 2111903.
Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách nhà nước.
Trong phần tranh tụng, bị cáo thừa nhận việc truy tố và xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai, bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt, bị hại không ý kiến gì tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội cải tạo giáo dục sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đại Từ, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Chu Văn V khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 16/6/2022, bị cáo cùng với cháu M, cháu B và cháu Nh (là con gái của bị cáo) đi soi cua ở mương nước tại cánh đồng thuộc xóm Đồng Mạc, xã Tiên Hội, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Khi đi soi cua, cháu B và cháu Nh cầm túi nilong đứng trên đường bê tông, còn bị cáo và cháu M đứng dưới bờ ruộng cùng quay mặt vào phía đường bê tông để soi cua dưới mương nước, bị cáo và 03 cháu soi cua đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì dương vật của bị cáo cương cứng nên bị cáo nảy sinh ham muốn động chạm vào cơ thể của cháu M để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình. Lúc này cháu M đang đứng cạnh phía bên tay trái của bị cáo, tay phải bị cáo cầm đèn pin để soi cua, bị cáo vòng tay trái ra phía sau sờ, xoa vào mông bên trái ở ngoài quần của cháu M khoảng 02-04 giây rồi bị cáo bỏ tay ra, sau đó V và cháu M, cháu Nh, cháu B tiếp tục soi cua đến gần 22 giờ cùng ngày thì đi về nhà bị cáo, sau đó cháu M, cháu B đi về nhà của mình. Mục đích của bị cáo sờ, xoa vào mông cháu M để nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục. Sau khi có hành vi dâm ô gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đ.
Lời khai của bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại tại phiên tòa: Ngày 16/6/2022 cháu Bùi Ngọc M có đi soi cua cùng bị cáo V, cháu Bùi Gia Bảo (là em trai) và cháu Chu Phương Nh (là con của bị cáo V) tại khu vực cánh đồng thuộc xóm Đồng Mạc, xã Tiên Hội, huyện Đại Từ. Trong lúc đang soi cua ở khu vực mương nước thì V có hành vi dùng tay sờ, xoa vào mông cháu M, sau khi V có hành vi trên cháu M đã nói chuyện với chị Nhung (là mẹ đẻ) nên chị Nhung đã có đơn tố cao hành vi của V. Sau khi điều tra gia đình V đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 10.000.000 đ, về dân sự gia đình không ý kiến gì, về trách Nhệm hình sự đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội cải tạo bản thân.
Lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị Th tại phiên tòa xác định: Chồng tôi là Chu Văn V có hành vi dâm ô đối với cháu Bùi Thị M và bị xét xử, trong quá trình điều tra gia đình đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình cháu M số tiền 10.000.000 đ, về số tiền đã bồi thường tôi không ý kiến gì.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như: Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, kết luận giám định...
Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 16/6/2022 tại khu vực bờ ruộng ở cánh đồng thuộc xóm Đồng Mạc, xã Tiên Hội, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Chu Văn V đã thực hiện hành vi dâm ô đối với cháu Bùi Ngọc M, sinh ngày 29/8/2012, bằng cách dùng tay sờ, xoa vào mông bên trái của cháu M qua lớp vải quần để thỏa mãn nhu cầu tình dục của bản thân. Hành vi trên của bị cáo V đủ yếu tố cấu thành tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự năm 2015, nội dung điều luật như sau:
Điều 146 BLHS quy định:
“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
[3]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và quyền được phát triển bình thường về tình dục, tâm lý của trẻ em còn chưa phát triển đầy đủ dễ dẫn đến hậu quả nên phải xử lý nghiêm minh.
[4]. Xét tình tiết tăng nặng trách Nhệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
[5]. Xét tình tiết tiết giảm nhẹ trách Nhệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả nên bị cáo được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ trách Nhệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra trong quá trình nghị án HĐXX xem xét tình tiết phía đại diện hợp pháp cho bị hại có ý kiến đề nghị xin giảm nhẹ trách Nhệm hình sự cho bị cáo nên đây được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
[6]. Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, trong quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo không vi phạm gì nên đây là tình tiết nhân thân cần xem xét khi lượng hình.
[7]. Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách Nhệm hình sự và nhân thân của bị cáo, mặc dù bị cáo thực hiện hành vi phạm tội ít nghiêm trọng, có Nhều tình tiết giảm nhẹ nhưng bị cáo phạm tội dâm ô đối với trẻ em, độ tuổi chưa trưởng thành về tâm, sinh lý cần được bảo vệ nên cần phải xử lý nghiêm minh, do vậy HĐXX cần xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù và buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian có như vậy mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội đồng thời mang tính phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
[8]. Về dân sự: Bị cáo, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho bị hại, tại phiên tòa bị hại và đại diện hợp pháp cho bị hại không ý kiến gì về bồi thường trách Nhệm dân sự nên HĐXX không xem xét.
[9]. Vật chứng: 01chiếc quần vải màu đen, 01 chiếc quần lót nam giới, 01 chiếc áo phông cộc tay màu xanh, niêm phong trong bì kí hiệu PS2 2111903 đây là tài sản của bị cáo khi điều tra xem xét và tạm giữ, tại phiên tòa bị cáo không đề nghị nhận lại và đề nghị xử lý nên cần tịch thu tiêu hủy.
Quá trình điều tra xác định vào ngày 17/6/2022, V còn có hành vi kéo cháu M vào nhà tắm rồi đóng cửa lại, mục đích để nhìn ngắm cháu M, không có mục đích sờ vào người cháu M và không nhằm quan hệ tình dục với cháu M, cháu M xác định V không có hành vi tiếp xúc vào bộ phận sinh dục hoặc các bộ phận nhạy cảm khác trên người cháu M. Do vậy, hành vi của V không đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, không đủ căn cứ xem xét khoản khác trong cùng điều luật nên Cơ quan CSĐT không xem xét xử lý đối với V. Hành vi của V cũng không đủ các yếu tố cấu thành tội phạm khác nên không có căn cứ để xem xét xử lý đối với V là phù hợp.
[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định nộp ngân sách nhà nước, bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 146, các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 47 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Chu Văn V phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
- Xử phạt: Bị cáo Chu Văn V 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án.
- Về dân sự: Không xem xét.
- Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01chiếc quần vải màu đen; 01 chiếc quần lót nam giới, 01 chiếc áo phông cộc tay màu xanh niêm phong trong bì kí hiệu PS2 2111903.
(Tình trạng, đặc điểm của vật chứng như trong mô tả tại quyết định chuyển vật chứng số 02/QĐ - VKSĐT ngày 19/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên).
- Về án phí: Buộc bị cáo Chu Văn V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.
Báo cho bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại, người có QLNVLQ biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. /.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!