Bản án số 59/2023/HS-ST ngày 26-10-2023 của TAND huyện Thạch Hà (TAND tỉnh Hà Tĩnh) về tội dâm ô với người dưới 16 tuổi

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 59/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 59/2023/HS-ST ngày 26-10-2023 của TAND huyện Thạch Hà (TAND tỉnh Hà Tĩnh) về tội dâm ô với người dưới 16 tuổi
Tội danh: 146.Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Thạch Hà (TAND tỉnh Hà Tĩnh)
Số hiệu: 59/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/10/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ án: Lê Đình H phạm tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi”.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN

HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH

-------------------

Bản án s: 59/2023/HS-ST

Ngày 26/10/2023

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

-----------------------

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 59/2023/HS-ST NGÀY 26/10/2023 VỀ TỘI DÂM Ô VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Vào hồi 07 giờ, 30 phút, ngày 26 tháng 10 năm 2023, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 54/2023/TLST-HS, ngày 02/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2023/QĐXXST- HS, ngày 13/10/2023 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Lê Đình H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 05/9/1976 tại thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Số nhà .., đường N, t.., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam;Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 04/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Lê Đình T - Sinh năm 1952; Con bà Đặng Thị C - Đã chết; Anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Nguyễn Thị H - Sinh năm 1986; Có một con sinh tháng 7 năm 2023;

Tiền án; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 18/01/2011, Lê Đình H bị ng an huyện T xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 200.000 đồng về hành vi đánh bạc, đã nộp tiền ngày 18/01/2011; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 19/7/2023 đến nay. Hiện đang trú tại tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

* Người bị hại: Cháu Nguyễn T , sinh ngày 23/3/2009; Nơi cư trú: tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Học sinh. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Đại diện Hợp pháp của người bị hại: Chị Thân Thị N , sinh năm: 1983; Nơi cư trú: Ngõ 7, đường H, tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Kế toán doanh nghiệp. (Có mặt)

* Người bảo vệ quyền và lợi ích Hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị N - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giáp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

* Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Phùng P; sinh năm 1965; Nơi cư trú: số nhà 148, đường H, tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; (Có mặt)

2. Ông Nguyễn Văn Đ; sinh năm 1977; Nơi cư trú: Tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh;

3. Anh Dương Đức Thắng; sinh năm 1983; Nơi cư trú: Tổ.., phường T, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; (Vắng mặt)

4. Anh Nguyễn Viết H; sinh năm 1989; Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; (Vắng mặt)

5. Lê Đình S; sinh năm 1987; Nơi cư trú: Tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; (Vắng mặt)

6. Chị Nguyễn Thị Mỹ D; sinh năm 1984; Nơi cư trú: số .., ngõ 30, đường Phan Huy Chú, tổ dân phố 8, phường T, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

7. Cháu Đậu Đức M; sinh năm 2013; Tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; (Vắng mặt)

8. Cháu Nguyễn Phùng B; sinh năm 2013; Tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; (Vắng mặt)

9. Cháu Nguyễn Cảnh H; sinh năm 2012; Tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; (Vắng mặt)

10. Chị Nguyễn Thị T; sinh năm 1989; Tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; (Vắng mặt)

* Đại diện trường Trung học cơ sở P, huyện T: Thầy giáo Phạm Lê H; Chức vụ: Hiệu trưởng (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 29/6/2023, trong lúc Lê Đình H đang hái cà tại vườn nhà mình ở tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh thì cháu Nguyễn T , sinh ngày 23/3/2009 (là hàng xóm của H) đến xin phép vào vườn (khu vực chuồng gà) để nhặt quả cầu lông đánh rơi trước đó. Lúc này, trong vườn chỉ có H và cháu M; nhìn thấy vú cháu M rung rinh sau lớp áo nên H nảy sinh ham muốn sờ vú cháu M. Khi cháu M vừa đi qua cửa chuồng gà thì H đứng bên trái người cháu M và nói“Cho bác sờ cái nha?”, rồi H dùng tay phải bóp một cái vào vú bên trái của cháu M thì cháu M quay lại nói“Bác mần chi rứa?” rồi bước đi. Tiếp đó, H dùng tay phải với theo cầm vào tay phải của cháu M kéo ra sau làm cháu M ngã ngửa sang phía bên trái nằm giữa khoảng đất trống cạnh luống cà. Khi cháu M đang ngồi dậy thì H đi đến quỳ gối xuống bên phải người cháu M, dùng tay trái ôm vào bên trái người và giữ lấy tay trái của cháu M, còn tay phải quàng qua thân người bên phải rồi bóp liên tục 3 - 4 cái vào vú phải của cháu M; sau đó H thả tay trái cháu M ra và dùng hai tay bóp nhiều cái vào hai vú của cháu M. Sau khi H thả tay ra khỏi cơ thể thì cháu M bỏ chạy về nhà và gọi điện thoại cho mẹ là chị Thân Thị N kể lại sự việc nói trên. Trên đường đi từ nơi làm việc về nhà thì chị N gặp Lê Đình H nên yêu cầu H đến nhà mình để nói chuyện. Tại đây, nhận thức được hành vi sờ, bóp vú cháu M là sai nên H đã quỳ xuống xin lỗi cháu M và chị N. Ngay sau đó, chị Thân Thị N đã trình báo sự việc đến Cơ quan CSĐT ng an huyện T. Tiếp đó, Lê Đình H cũng đã đến Cơ quan CSĐT ng an huyện T đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

- Ngày 29/6/2023, Cơ quan CSĐT ng an huyện T ra Quyết định số 59/QĐ-TCGĐ trưng cầu Trung tâm pháp y và giám định y khoa Hà Tĩnh giám định pháp y về tình dục đối với cháu Nguyễn T .

- Ngày 07/7/2023, Trung tâm pháp y và giám định y khoa tỉnh Hà Tĩnh ban hành kết luận giám định xâm hại tình dục số 12/KLTD-TTPY&GĐYK, kết luận: Âm hộ, môi lớn, môi bé, tầng sinh môn, hậu môn: Không thấy tổn thương. Màng trinh: Không thấy rách, không xây xước, không bầm tím, không chảy máu. Không thấy hình ảnh tinh trùng trong dịch âm đạo. Hai vú bình thường. Không có dấu vết tổn thương trên cơ thể.

* Vật chứng thu giữ gồm: Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT ng an huyện T thu giữ: 01 chiếc áo sơ mi, loại ngắn tay, kẻ sọc ca rô màu xanh-trắng- đen, 01 chiếc quần vải, cạp chun, ống dài, màu xanh than, đều đã qua sử dụng của Lê Đình H; 01 chiếc áo phông, cổ tròn, ngắn tay, màu trắng, mặt trước áo có chữ “Cannelé”, mặt sau áo có dính nhiều vết bẩn màu nâu, màu xanh, 01 chiếc áo lót ngực, dạng áo quây, màu hồng nhạt, 01 chiếc quần đùi màu nâu, đều đã qua sử dụng của cháu Nguyễn T . Xét thấy không ảnh hưởng đến quá trình điều tra nên ngày 11/8/2023, Cơ quan CSĐT ng an huyện T đã trả lại cho các chủ sở hữu.

* Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, chị Thân Thị N đại diện Hợp pháp của người bị hại không yêu cầu Lê Đình H bồi thường gì.

Tại cáo trạng số 57/CT-VKS-TH, ngày 28/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Lê Đình H về tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về trách nhiệm hình sự: áp dụng khoản 1 Điều 146; Điều 38, điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Lê Đình H từ 06 đến 09 tháng tù về tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

+ Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 3, Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

+ Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện Hợp pháp của bị hại và những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Đình H đã khai nhận về hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố và không có ý kiến tranh luận gì;

- Người đại diện Hợp pháp của bị hại: Hành vi của bị cáo là rất đáng lên án. Tuy nhiên đến nay bị cáo cũng đã nhận thức được lỗi lầm, thể hiện sự ăn năn hối cãi và hoàn cảnh gia đình của bị cáo cũng rất đáng thương nên đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Hiện nay tình trạng tâm lý, sức khỏe của cháu M đã trở lại bình thường.

- Trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền lợi Hợp pháp cho bị hại trình bày: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất đáng lên án không chỉ làm ảnh hưởng đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm mà còn tác động tiêu cực đến tâm lý và sự phát triển bình thường của người bị hại. Người bảo vệ quyền và lợi ích Hợp pháp cho bị hại đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều khoản đề nghị truy tố, xét xử và mức hình phạt đối với bị cáo.

* Lời nói sau cùng của bị cáo Lê Đình H: Sau sự việc xảy ra bị cáo rất xấu hổ, hối hận về hành vi của mình; tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành thật xin lỗi gia đình bị hại; hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, lấy vợ nhiều năm mới có con, mẹ đã mất, bị cáo là trụ cột trong gia đình phải nuôi bố bị câm điếc bẩm sinh, bị cáo là người trực tiếp thờ cúng bác ruột Lê Đình H là liệt sỹ chống Mỹ, mong HĐXX xem xét cho điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính Hợp pháp của quyết định và hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; đảm bảo các quyền của người bị hại là trẻ em trong quá trình tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và hành vi của người tiến hành tố tụng đã thực hiện là Hợp pháp.

[2] Về căn cứ xác định tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Đình H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo, người bị hại và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 29/6/2023, tại nhà Lê Đình H thuộc tổ .., thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh, Lê Đình H đã thực hiện hành vi dâm ô đối với cháu Nguyễn T (sinh ngày 23/3/2009) nhằm thỏa mãn ham muốn tình dục cá nhân. Hành vi của bị cáo H chỉ dừng lại ở việc tác động ở bên ngoài cơ thể của bị hại mà không có sự giao cấu hoặc không có mục đích giao cấu. Do đó, hành vi trên của bị cáo Lê Đình H đã cấu thành tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi”. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo về tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

3.1. Tình tiết tăng nặng: không;

3.1. Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường H ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; tự nguyện đến cơ quan ng an đầu thú khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có ng thờ cúng bác ruột là liệt sỹ chống Mỹ; đại diện Hợp pháp người bị hại có ý kiến đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về tính chất hành vi phạm tội và quyết định hình phạt đối với bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì ham muốn lệch lạc, lợi dụng sự non nớt trong nhận thức và khả năng tự bảo vệ của người bị hại mà bị cáo Lê Đình H đã thực hiện hành vi dâm ô với cháu Nguyễn T . Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhất là đối với trẻ em được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tâm lý và sự phát triển bình thường của người bị hại; tạo nên dư luận xấu và tâm lý bất an, lo lắng trong nhân dân. Vì vậy cần xử phạt nghiêm khắc để bị cáo thấy được lỗi lầm, cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, quá trình lượng hình cũng cần xem xét đến tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; hành vi dâm ô mới dừng lại ở việc tiếp xúc bên ngoài quần áo, chưa gây tổn hại về thể chất đối với bị hại và khi cháu M có sự phản ứng thì bị cáo dừng lại và ngay sau đó đã nhận thức được lỗi lầm của mình, chủ động sang gia đình bị hại quỳ xuống xin lỗi, thực sự thể hiện sự ăn năn hối cãi; hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện tại rất khó khăn, vợ chồng kết hôn nhiều năm mới có con (vợ mới sinh con tháng 7 năm 2023), bị cáo là trụ cột trong gia đình đang phải nuôi vợ con và người bố bị câm điếc bẩm sinh. Ngoài ra, bị cáo cũng là người trực tiếp thờ cúng bác ruột là liệt sỹ Lê Đình H – hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; tại phiên toà đại diện gia đình bị hại có ý kiến đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật, nhưng dù giảm nhẹ đến đâu thì với tính chất hành vi phạm tội xâm hại trẻ em thì việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là điều cần thiết. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, người đại diện, người bảo vệ quyền lợi ích Hợp pháp của bị hại tại phiên toà là phù H nên HĐXX chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện Hợp pháp của bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên HĐXX miễn xét.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người đại diện Hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích Hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự; điểm s, i khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136, Điều 414, 420, Điều 423 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 3, Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Đình H phạm tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Đình H 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Đình H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện Hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích Hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nơi nhân:

- TAND tỉnh Hà Tĩnh;

- VKSND tnh Hà Tĩnh;

- Sở Tư pháp Hà Tĩnh;

- VKSND huyện Thch Hà;

- Công an huyện Thạch Hà;

- Chi cục THA dân sự huyện Thạch Hà;

- Thi hành án hình sự;

- Bị cáo; những ngưi tham gia ttụng khác;

- Lưu Hồ sơ; VT.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT X

THẨM PN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

 

 

 

 

 

Nguyễn Thành Nhân

 

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất