Bản án số 22/2022/HS-ST ngày 30/06/2022 của TAND huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 22/2022/HS-ST ngày 30/06/2022 của TAND huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Tội danh: 146.Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Võ Nhai (TAND tỉnh Thái Nguyên)
Số hiệu: 22/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/06/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 22/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 24/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2022 đối với:

- Bị cáo: Hà Văn P, sinh ngày 01 tháng 6 năm 1991 tại TN;

Nơi cư trú: xóm LG, xã TL, huyện ĐH, tỉnh TN; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Văn Th và bà Nguyễn Thị Ư; Có vợ là Hà Thị L và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại Phiên tòa

- Bị hại: Cháu Ngô Thị G, sinh ngày 10/9/2008; (Có mặt).

Địa chỉ: Xóm KS, xã TS, huyện VN, tỉnh TN.

- Người đại diện hợp pháp cho bị hại cháu Ngô Thị G:

+ Anh Ngô Văn P, sinh năm 1982; (Bố đẻ của G) (Có mặt).

+ Chị Lý Thị C, sinh năm 1983; (Mẹ đẻ của G) (Có mặt).

Cùng địa chỉ: Xóm KS, xã TS, huyện VN, tỉnh TN.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại cháu Ngô Thị G: Bà Lê Thúy H – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Hà Văn Th, sinh năm 1968; (Bố đẻ bị cáo) (Có mặt).

+ Chị Hà Thị L, sinh năm 1994; (Vợ bị cáo) (Có mặt).

Cùng địa chỉ: Xóm LG, xã TL, huyện ĐH, tỉnh TN.

- Đại diện trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Thần Sa (nơi cháu G đang học tập): Ông Hoàng Thanh Ch – Giáo viên Phó chủ nhiệm lớp 7; (Có mặt).

- Người làm chứng:

+ Anh Lý Văn T, sinh năm 1989; (Vắng mặt).

+ Anh Lý Văn H, sinh năm 1988; (Vắng mặt).

+ Ông Nguyễn Đức D, sinh năm 1974; (Vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Xóm KS, xã TS, huyện VN, TN.

- Người chứng kiến: Anh Lường Văn V, sinh năm 1988; (Vắng mặt).

Địa chỉ: Xóm KS, xã TS, huyện VN, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ ngày 18/02/2022 Hà Văn P, sinh năm 1991, nơi cư trú: xóm LG, xã TL, huyện ĐH, tỉnh TN điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 20G1 - 337.06 đi từ nhà đến xã TS, huyện VN theo đường liên xã để làm gỗ. P đi theo hướng từ xã TL qua xã LH, xã CĐ huyện VN rồi đi đến xã TS. Đến khoảng 11 giờ 45 phút cùng ngày khi P đi đến đoạn đường thuộc xóm KS, xã TS, huyện VN thì nhìn thấy cháu Ngô Thị G, sinh ngày 10/9/2008, nơi thường trú: Xóm KS, xã TS, huyện VNđang trên đường đi học về đạp xe đạp một mình đi ngược chiều với P. P đi qua cháu G khoảng 200m thì nảy sinh ý định xin tài khoản mạng xã hội FACEBOOK, ZALO của cháu G nên đã điều khiển xe vòng quay lại đuổi theo cháu G. Khi đến gần G, P điều khiển xe đi song song với G. Do lúc này cháu G dừng xe lại sát lề đường phải theo hướng đang đi, P cũng dừng lại để bắt chuyện với cháu G, sau đó P đã vờ hỏi cháu G hướng đi đến xã TS. Cháu G đã chỉ cho P hướng đi rồi tiếp tục đạp xe đi về nhà. P tiếp tục điều khiển xe đi rồi hỏi theo G hướng đường đi xã CĐ. Cháu G cũng chỉ đường cho P rồi đạp xe về nhà. Lúc này thấy trên đường không có người qua lại nên P đã nảy sinh ý định sờ ngực cháu G để xem ngực cháu có to không. Do vậy P áp sát xe vào xe cháu G, sau đó đi vượt qua và vòng đầu xe mô tô của P về phía bên phải, bánh trước xe chặn trước hướng đi của cháu G. Bị áp sát nên cháu G đi xe xuống phần lề đất, khi bị chặn xe cháu G dừng lại, ngồi trên yên xe, chân chống xuống đất, hai tay vẫn cầm ở tay lái xe đạp để giữ cân bằng xe. P ngồi trên yên xe, hai chân chống xuống đất giữ thăng bằng, hai đầu bánh xe trước giáp vào nhau, lúc này vị trí P cách cháu G khoảng 70cm. Khi cháu G vừa dừng lại P không nói gì mà bỏ tay trái ra khỏi tay lái của xe và sờ vào ngực (vú) bên trái của cháu G, khi bàn tay P sờ trúng vùng ngực thì 05 ngón tay của P cũng bóp mạnh để cảm nhận xem ngực to hay nhỏ (P sờ ngực cháu G qua lớp áo cháu đang mặc, không trực tiếp thò tay vào bên trong da ngực cháu G). Cháu G dùng tay gạt tay P ra và đẩy mạnh xe đạp của cháu G đổ về phía P, đồng thời cháu G rời khỏi xe đứng xuống phần lề cỏ. Cháu G nhặt 01 viên đá có sẵn tại khu vực cỏ dưới chân cháu và ném trúng vào vùng sườn bên trái của P, viên đá đó rơi xuống bật về gần phía G thì G lại nhặt và ném vào vùng sườn của P lần thứ hai rồi bỏ chạy về hướng nhà cháu G. Thấy vậy P đã gạt xe đạp cháu G đổ xuống đường và điều khiển xe đi về hướng xã TS để đi làm gỗ, sau đó về nhà.

Khi thấy P bỏ đi, Cháu G quay lại lấy xe đạp rồi đi về nhà, cháu G kể lại sự việc với mẹ là chị Lý Thị C nghe, chị C đã cùng người nhà trình báo sự việc với Công an xã TS. Công an xã TS đã tiếp nhận tin báo, đưa cháu G đến khám tại Trạm y tế xã TS. Qua khám ban đầu xác định tại mặt trong vú bên trái giáp với xương ức có 01 vết hằn đỏ da kích thước khoảng 02x02cm, cách núm vú bên trái khoảng 05cm. Qua xác minh Công an xã TS đã xác định được người thực hiện hành vi đối với cháu G là P nên đã tiến hành xác minh, triệu tập P đến trụ sở để làm việc. Đến ngày 19/02/2022 Công an xã TS đã chuyển toàn bộ hồ sơ, vật chứng đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện VN để điều tra theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số 105/TgT ngày 22/02/2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thái Nguyên kết luận:

1. Dấu hiệu qua giám định: Hiện tại không còn dấu vết của thương tích.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 0%.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Hà Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 23/CT-VKSVN ngày 31 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Hà Văn P về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai đã trình bày bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hà Văn P phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”. Áp dụng khoản 1 Điều 146; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt Hà Văn P từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”;

Về vật chứng: Trả lại cho bị cáo: 01 xe mô tô biển kiểm soát 20G1 - 337.06 nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS RC màu sơn đen, trắng không có gương, yên xe bị rách, số khung: RLCS5C6K0-GY302604, số máy 306K-302608, tình trạng xe cũ đã qua sử dụng; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy số 013754 mang tên Nguyễn Bá L cấp ngày 30/6/2016;

Tịch thu tiêu hủy: 01 áo mưa màu xanh tím than cũ; 01 quần mưa màu xanh tím than cũ; 01 đôi dép tổ ong màu vàng cũ size XX; 01 khẩu trang y tế màu xanh đã qua sử dụng;

Về dân sự: Ghi nhận việc gia đình bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 20.000.000 đồng.

Về án phí: Bị cáo P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách nhà nước theo quy định;

Bị cáo đã nghe rõ bản luận tội và nhất trí, không có tranh luận gì.

Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Với hành vi phạm tội của bị cáo P, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 146 của Bộ luật hình sự để xử bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi của bị cáo đã thực hiện, tại Phiên tòa phía gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét. Về trách nhiệm dân sự hai bên đã thỏa thuận bồi thường xong, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận việc thỏa thuận tự nguyên bồi thường này.

Bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại không có tranh luận gì, nhất trí với ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin được hưởng án treo để cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại Phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Võ Nhai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại Phiên tòa bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Tại Phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai truy tố là đúng người, đúng tội.

Xét thấy, lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại Phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Lời khai của bị hại, bản kết luận giám định, biên bản xem xét dấu vết trên thân thể, biên bản giao nhận vật chứng. Như vậy, đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 18/02/2022 tại đoạn đường thuộc xóm KS, xã TS, huyện VN, tỉnh TN, Hà Văn P là người đã đủ 18 tuổi đã có hành vi dùng tay trái của mình bóp vào bộ phận nhạy cảm là ngực (vú) bên trái gián tiếp qua lớp áo của cháu Ngô Thị G, sinh ngày 10/9/2008 (tính đến ngày 18/02/2022 cháu G được 13 tuổi 05 tháng 08 ngày). Hành vi của P không nhằm vào mục đích giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với cháu G.

Tại điểm b khoản 3 Điều 3 của Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 có quy định:

“3. Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục, gồm một trong các hành vi sau đây:

b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi...) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;” Hành vi nêu trên của bị cáo Hà Văn P đã phạm vào tội "Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi" tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự.

Nội dung điều luật quy định như sau:

“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai truy tố bị cáo theo tội danh và Điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật đã quy định.

[3]. Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em, gây ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ nhỏ, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay loại tội phạm này đang gia tăng gây bất bình lớn trong dư luận. Bị cáo là người đã trưởng thành nên nhận thức rõ hành vi dùng tay bóp vào bộ phận nhạy cảm (vú) của người khác là hành vi trái đạo đức xã hội và vi phạm pháp luật. Vì vậy, cần phải có hình phạt tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại Phiên tòa bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại tổn thất tinh thần cho cháu Ngô Thị G; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, tại Phiên tòa đại diện người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đã tự nguyện nộp trước án phí hình sự sơ thẩm tại Phiên tòa; bị cáo có đơn xin được cải tạo tại địa phương được chính quyền địa phương xác nhận đề nghị. Do vậy bị cáo được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo P khi còn nhỏ được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 9/12 sau đó nghỉ học ở nhà làm ruộng. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[5]. Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết xử phạt bị cáo Hà Văn P từ mức án từ 15 đến 18 tháng tù. Đối chiếu với quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; có 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 và có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đại diện bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo là người có nơi cư trú rõ ràng, có đơn xin hưởng án treo được chính quyền địa phương xác nhận. Do vậy, không cần thiết phải buộc cách ly xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng cũng đủ điều kiện để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, ngày 26/02/2022 gia đình bị cáo đã thỏa thuận bồi thường tổn thất tinh thần cho cháu G số tiền 20.000.000 đồng. Phía bị hại đồng ý và không có yêu cầu gì thêm nên cần ghi nhận việc thỏa thuận bồi thường của hai bên.

[7]. Về vật chứng của vụ án cần được xử lý như sau:

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 20G1 - 337.06 nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS RC màu sơn đen, trắng không có gương, yên xe bị rách, số khung: RLCS5C6K0-GY302604, số máy 306K-302608, tình trạng xe cũ đã qua sử dụng và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy số 013754 mang tên Nguyễn Bá L cấp ngày 30/6/2016; Đây là tài sản hợp pháp của gia đình bị cáo cần trả lại cho bị cáo.

- 01 áo mưa màu xanh tím than cũ; 01 quần mưa màu xanh tím than cũ; 01 đôi dép tổ ong màu vàng cũ size XX; 01 khẩu trang y tế màu xanh đã qua sử dụng. Đây là những vật chứng thu giữ của bị cáo, đã cũ không còn giá trị sử dụng nên cần tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Trong vụ án này, bị cáo Hà Văn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại Phiên tòa, bị cáo đã tự nguyện nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo biên lai thu tiền của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Võ Nhai số 0002126 ngày 30/6/2022.

[9]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật xử bị cáo với mức hình phạt trong phần luận tội là có căn cứ cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn P phạm tội "Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi".

1. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 146; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo.

Xử phạt: Hà Văn P 15 (Mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Hà Văn P cho UBND xã TL, huyện ĐH, tỉnh TN giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự, các Điều 584, 592 của Bộ luật dân sự.

Ghi nhận việc gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường tổn thất tinh thần cho bị hại số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) đại diện bị hại - ông Ngô Văn P, (Bố đẻ bị hại đã nhận theo giấy biên nhận tiền ngày 26/02/2022).

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả cho bị cáo Hà Văn P 01 xe mô tô biển kiểm soát 20G1 - 337.06 nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS RC màu sơn đen, trắng không có gương, yên xe bị rách, số khung: RLCS5C6K0-GY302604, số máy 306K-302608, tình trạng xe cũ đã qua sử dụng; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy số 013754 mang tên Nguyễn Bá L cấp ngày 30/6/2016;

- Tiêu hủy 01 áo mưa màu xanh tím than cũ; 01 quần mưa màu xanh tím than cũ; 01 đôi dép tổ ong màu vàng cũ size XX; 01 khẩu trang y tế màu xanh đã qua sử dụng.

(Vật chứng đã được chuyển đến Chi cục THADS huyện Võ Nhai, có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Võ Nhai với Chi cục THA dân sự huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ngày 27/5/2022).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/ 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Buộc bị cáo Hà Văn P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách nhà nước (Bị cáo đã nộp theo biên lai số 0002126 ngày 30/6/2022 của Chi cục THA dân sự huyện Võ Nhai).

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Tải về
Bản án số 22/2022/HS-ST Bản án số 22/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất