Bản án số 115/2025/HC-PT ngày 10/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 115/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 115/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 115/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 115/2025/HC-PT ngày 10/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 115/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/02/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Lê Đại T1 là người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 115/2024/HC-ST ngày 01/8/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 115/2025/HC-PT
Ngày: 10/02/2025
V/v: “Kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
ông Trần Đức Kiên
Các Thẩm phán:
ông Đặng Kim Nhân
ông Trần Quốc Cường
- Thư ký phiên tòa: ông Trần Xuân Lộc, Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: bà Trần Thị Thắng, Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 02 năm 2025, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng, kết nối với điểm cầu thành phần tại trụ sở Toà án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến
vụ án hành chính thụ lý số 346/2024/TLPT-HC ngày 18 tháng 10 năm 2024 về
việc “Kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 115/2024/HC-ST ngày 01 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 338/2025/QĐ-PT ngày
20 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: ông Thạch C; địa chỉ: tổ dân phố D, phường T, thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Thạch C: ông Lê Thanh T; địa chỉ:
thôn H, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố B
Người đại diện theo pháp luật: ông Vũ Văn H - Chức vụ: Chủ tịch;
2
Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Đại T1 - Chức vụ: Phó Chủ tịch, vắng
mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: ông Phạm Văn
N - Chức vụ: Trưởng phòng Kỹ thuật, giải phóng mặt bằng Trung tâm phát triển
quỹ đất tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Lê Thị Hải Y
- Chị Thạch Thị Uyển T2
- Chị Thạch Thị Anh P
- Chị Thạch Thị Uyên P1
- Anh Nguyễn Hải N1
Cùng địa chỉ: tổ dân phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; đều vắng
mặt.
Người kháng cáo: Ủy ban nhân dân thành phố B.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung Đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện,
đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:
Gia đình ông Thạch C sử dụng thửa đất số 28, tờ bản đồ 07, diện tích bị thu
hồi 1.671,30 m2 tại phường T, có nguồn gốc: Công ty TNHH MTV C1 ký kết
Hợp đồng giao khoán sản xuất cà phê số 76/Đ1/2012/HĐ ngày 04/6/2012. Gia
đình ông Thạch C có 06 khẩu, trong đó ông Thạch C là công nhân của Công ty
TNHH MTV C1 đã nghỉ thôi việc, được hưởng trợ cấp năm 2016, 05 nhân khẩu
còn lại không hưởng lương, đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp, có nguồn thu
nhập thường xuyên ổn định từ sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Hạ tầng giao thông khu
dân cư phía Bắc phường T, thửa đất của ông Thạch C bị thu hồi và được UBND
thành phố B phê duyệt Phương án bồi thường tại Quyết định số 8601/QĐ-UBND
ngày 01/12/2021 (được điều chỉnh lại tại Quyết định số 4633/QĐ-UBND ngày
09/8/2023). Theo đó B tính chi tiết đính kèm (trang 20, 21) thì UBND thành phố
B chưa phê duyệt Hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm khi nhà
nước thu hồi đất theo Điều 18 Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND ngày
10/11/2014 và Điều 4 Quyết định số 22/2017/QĐ-UBND ngày 24/7/2017 của
UBND tỉnh Đ đối với 05 nhân khẩu còn lại này. Áp dụng quy định pháp luật tại
thời điểm phê duyệt Phương án bồi thường tại Quyết định số 8601/QĐ-UBND
ngày 01/12/2021 (lần đầu), sau này được UBND thành phố B điều chỉnh tại Quyết
định số 4633/QĐ-UBND ngày 09/8/2023 thì quy định về Hỗ trợ đào tạo chuyển
đổi nghề và tìm kiếm việc làm, thể hiện qua các căn cứ pháp luật sau:
- Một là, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, tại Điều 83 quy định 04
hình thức hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất, trong đó tại điểm b Điều 83 là Hỗ trợ
chuyển đồi nghề và tìm kiếm việc làm;
3
- Hai là, theo quy định tại Điều 20, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất có quy định
Hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Khoản 6 Điều 4 Nghị định
số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 như sau:
6. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 20 như sau:
“1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại các điểm
a, b, c khoản 1 Điều 19 của Nghị định này khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
mà được bồi thường bằng tiền; hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất quy định tại
các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 19 của Nghị định này (trừ trường hợp hộ gia đình,
cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông, lâm trường quốc doanh, của công ty
N2, lâm nghiệp được chuyển đổi từ các nông, lâm trường quốc doanh đã nghỉ hưu,
nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp) khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo
quy định sau đây:
a) Hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong
bảng giá đất của địa phương đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi;
diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương
theo quy định tại Điều 129 của Luật đất đai;
b) Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ điều kiện
thực tế của địa phương.”
- Ba là, về phía tỉnh Đắk Lắk, tại thời điểm phê duyệt Phương án bồi thường
tại Quyết định số 8601/QĐ-UBND ngày 01/12/2021 (lần đầu) thì việc Hỗ trợ đào
tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm có 02 quy định như sau:
+ Quy định thứ nhất: Hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm
được quy định tại Điều 18 Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND ngày 10/11/2014
của UBND tỉnh Đ quy định về Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, như sau:
Điều 18. Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm
“1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp thuộc các trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 20
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP trong trường hợp được bồi thường bằng tiền do
không có đất để bồi thường đối với diện tích đất bị thu hồi còn được hỗ trợ đào
tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định sau đây:
a) Việc hỗ trợ được tính bằng tiền áp dụng cho toàn bộ diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi, nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp do UBND
tỉnh quy định.
b) Mức hỗ trợ bằng 02 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong bảng giá đất
do UBND tỉnh ban hành.…”.
+ Quy định thứ hai: Hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm
được quy định tại Điều 4 Quyết định số 22/2017/QĐ-UBND ngày 24/7/2017 của
4
UBND tỉnh Đ về Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất tại các Quyết định của UBND
tỉnh như sau:
Điều 4, Sửa đổi, bổ sung Khoản 1, Điều 18 Quy định về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk được ban hành
kèm theo Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND, như sau:
“1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp thuộc các trường hợp được quy định tại Điểm 1 Khoản 6, Điều 4
Nghị định số 01/2017/NĐ-CP được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm
việc làm theo quy định sau đây:
a) Việc hỗ trợ được tính bằng tiền áp dụng cho toàn bộ diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi, nhưng không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp do UBND
tỉnh quy định.
b) Mức hỗ trợ bằng 02 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong bảng giá đất
do UBND tỉnh ban hành”.
Ngoài ra, theo ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tại Văn bản
số 552/VKS-P10 ngày 14/8/2023 gửi UBND tỉnh Đắk Lắk, có nội dung như sau:
“- Theo quy định của Luật Đất đai; Khoản 1, Điều 19, Khoản 1, Điều 20
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tai khoản 5, Điều 4, Nghị
định số 01/2017/NĐ-CP, thì: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do nhận giao
khoán đất của các nông lâm trường quốc doanh hoặc Công ty nông, lâm nghiệp
được chuyển đổi từ các nông, lâm trường quốc doanh đang trực tiếp sản xuất nông
nghiệp và có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp trên đất đó” là đối
tượng được hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm, không có nội dung nào
quy định các trường hợp “các nông, lâm trường quốc doanh hoặc công ty nông,
lâm nghiệp được chuyển đổi từ các nông, lâm trường quốc doanh” bị giải thể thì
không được hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo các quy định trên.
Tại một số Bản án hành chính đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã xác định: “các hộ dân có
Hợp đồng giao khoán với Công ty TNHH MTV C1 đã giải thể và thu hồi theo
Quyết định số 07/QĐ-UBND ngày 04/01/2017 của UBND tỉnh Đ là hộ gia đình,
cá nhân nhận khoán theo quy định tại Điểm d, Khoản 1, Điều 19, Nghị định số
47/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tai khoản 5, Điều 4, Nghị định số
01/2017/NĐ-CP. Từ đó tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các hộ dân, buộc
UBND thành phố B phải hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.
Ủy ban nhân dân các cấp sau đó đã ban hành các Quyết định phê duyệt Phương
án hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo Quyết định của Tòa
án”.
Đối chiếu các quy định trên, gia đình ông Thạch C phải được Hỗ trợ chuyển
đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho 05 nhân khẩu còn lại không hưởng lương (loại
trừ ông Thạch C) theo quy định tại Điều 18 Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND
ngày 10/11/2014 và Điều 4 Quyết định số 22/2017/QĐ-UBND ngày 24/7/2017
của UBND tỉnh Đ, lý do: “gia đình ông Thạch C là hộ nhận khoán với Công ty
5
TNHH MTV C1, đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp và có nguồn thu nhập ổn
định từ sản xuất nông nghiệp trên đất đó”.
Như vậy, UBND thành phố B không Hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm
việc làm trong phương án bồi thường, hỗ trợ là có thiếu sót, xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của gia đình ông Thạch C. Nay ông Thạch C khởi kiện đề
nghị Tòa án:
- Hủy một phần Quyết định số 4633/QĐ-UBND ngày 09/8/2023 và Quyết
định số 8601/QĐ-UBND ngày 01/12/2021 của UBND thành phố B về việc phê
duyệt, phê duyệt điều chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất để xây dựng công trình: Hạ tầng giao thông Khu dân cư P,
phường T, thành phố B.
- Buộc UBND thành phố B phải ban hành Quyết định phê duyệt bổ sung Hỗ
trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho 05 nhân khẩu còn lại trong
hộ ông Thạch C theo Điều 18 Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND ngày 10/11/2014
và Điều 4 Quyết định số 22/2017/QĐ-UBND ngày 24/7/2017 của UBND tỉnh Đ.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện rút yêu
cầu hủy một phần Quyết định số 4633/QĐ-UBND ngày 09/8/2023 và Quyết định
số 8601/QĐ-UBND ngày 01/12/2021 của UBND thành phố B, chỉ còn yêu cầu
thứ hai đề nghị Tòa án xem xét.
Tại Bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của
người bị kiện trình bày :
Hộ ông Thạch C sử dụng thửa đất số 28, tờ bản đồ số 7, diện tích 5.202,9m2
có nguồn gốc liên kết sản xuất trồng cà phê với Công ty TNHH MTV C1 (HĐ số
76 Đ1/2012/HĐ). Năm 2017, UBND tỉnh Đ thu hồi đất của Công ty TNHH MTV
C1 (do Công ty giải thể) giao Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk quản lý tại
Quyết định 07/QĐ-UBND ngày 04/01/2017, trong đó có thửa đất do ông Thạch
C đang sử dụng. Năm 2019, UBND tỉnh phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi
thực hiện Dự án Hạ tầng giao thông Khu dân cư phía Bắc tại phường T tại Quyết
định số 3125/QĐ-UBND ngày 28/10/2019. Ngày 01/12/2021, UBND thành phố
B đã phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với dự án nêu trên
tại Quyết định số 8601/QĐ-UBND ngày 01/12/2021 của Ủy ban Nhân dân thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk và được điều chỉnh tại Quyết định số 4633/QĐ-UBND ngày
09/8/2023, theo đó kinh phí bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Thạch C là
300.299.284 đồng (bao gồm các khoản bồi thường chi phí đầu tư và đất còn lại;
bồi thường về vật kiến trúc và cây trồng, hỗ trợ ổn định sản xuất, hỗ trợ khác) ông
Thạch C đã nhận tiền và bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công thực hiện dự án.
Đối với nội dung ông Thạch C khởi kiện buộc UBND thành phố B bổ sung
hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho 05 nhân khẩu còn lại trong hộ
theo Điều 18 Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND ngày 10/11/2014 và Điều 4
Quyết định số 22/2017/QĐ-UBND ngày 24/7/2017 của UBND tỉnh Đ. Theo kết
quả xác minh của Hội đồng giải thể Công ty TNHH MTV C1 tại Công văn 13/CV-
HĐGT ngày 22/7/2021 thì ông Thạch C là công nhân của Công ty TNHH MTV
6
C1 đã nghỉ chế độ hưu trí; đối chiếu với quy định tại Khoản 6 Điều 4 Nghị định
01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử
dụng đất quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 19 của Nghị định này (trừ
trường hợp hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông, lâm trường
quốc doanh, của công ty N2, lâm nghiệp được chuyển đổi từ các nông, lâm trường
quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp)
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề
và tìm kiếm việc làm..”, do đó hộ ông Thạch C không thuộc đối tượng hỗ trợ đào
tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Đối với 05 nhân khẩu còn lại trong hộ
(gồm 04 nhân khẩu vợ, con ruột trực tiếp sản xuất nông nghiệp, không hưởng
lương đã được áp dụng hỗ trợ khác theo quy định tại Khoản 3, Điều 23 Quyết
định số 27/2019/QĐ-UBND, ngày 19/12/2019 của UBND tỉnh Đ với số tiền là
128.496.000 đồng và 01 nhân khẩu là con rể không đủ điều kiện hỗ trợ) là đảm
bảo đúng quy định.
Phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Thạch C do Trung tâm phát
triển quỹ đất Đắk Lắk lập, được UBND thành phố B phê duyệt tại Quyết định số
8601/QĐ-UBND ngày 01/12/2021 và được điều chỉnh tại Quyết định số
4633/QĐ-UBND ngày 09/8/2023 đã đảm bảo quy định của pháp luật. Do đó các
nội dung khởi kiện của ông Thạch C là không có cơ sở xem xét, giải quyết. Đề
nghị Toà án bác đơn khởi kiện của ông Thạch C.
Với nội dung nêu trên, tại Bản án hành chính sơ thẩm số 115/2024/HC-ST
ngày 01/8/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định: căn cứ khoản 1
Điều 30, khoản 4 Điều 32, khoản 1 Điều 115, điểm a khoản 2 Điều 116, Điều 157,
Điều 158, Điều 193, Điều 194, Điều 206 Luật Tố tụng hành chính; Điều 66, 69,
83, 84 Luật Đất đai năm 2013; Điều 19, 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ và khoản 5, khoản 6 Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-
CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ; khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử: chấp nhận một phần Đơn khởi kiện của ông Thạch C.
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk phải ban hành bổ sung
Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối
với hộ gia đình ông Thạch C theo quy định của pháp luật, trong đó bổ sung nội
dung hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm
kiếm việc làm cho 05/06 nhân khẩu cho hộ ông Thạch C khi Nhà nước thu hồi
đất, bao gồm các nhân khẩu: bà Lê Thị Hải Y, chị Thạch Thị Uyển T2, chị Thạch
Thị Anh P, chị Thạch Thị Uyên P1, anh Nguyễn Hải N1;
- Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Thạch C về việc yêu cầu hủy 01 phần
Quyết định số 8601/QĐ-UBND ngày 01/12/2021 và Quyết định số 4633/QĐ-
UBND ngày 09/8/2023 của UBND thành phố B, tỉnh Đắk Lắk về việc phê duyệt,
phê duyệt điều chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất để xây dựng công trình: Hạ tầng giao thông Khu dân cư P, phường T,
thành phố B.
7
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo luật định.
Ngày 12/9/2024, ông Lê Đại T1 là người đại diện theo uỷ quyền của người
bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk kháng cáo bản án sơ thẩm, đề
nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện
của ông Thạch C.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Ngày 12/9/2024, ông Lê Đại T1 người đại diện theo uỷ quyền của người
bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố B kháng cáo bản án sơ thẩm, Đơn kháng cáo
của đương sự là trong thời hạn quy định tại Điều 206 Luật Tố tụng hành chính,
do đó được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên toà, người khởi kiện, đại diện người khởi kiện, những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng
mặt; đại diện người bị kiện vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng
xét xử căn cứ điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 255 Luật Tố tụng hành chính, tiến
hành xét xử vắng mặt các đương sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét
xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính, chấp nhận toàn
bộ kháng cáo của người bị kiện, sửa bản án sơ thẩm, bác toàn bộ đơn khởi kiện
của người khởi kiện ông Thạch C.
[2]. Xét kháng cáo của người bị kiện, Hội đồng xét xử xem xét các nội dung
sau:
[2.1]. Về nguồn gốc thửa đất số 28, tờ bản đồ số 7, diện tích 5.202,9 m2 của
ông Thạch C bị thu hồi:
Hộ ông Thạch C sử dụng thửa đất số 28, tờ bản đồ số 7, diện tích 5.202,9m2
có nguồn gốc liên kết sản xuất trồng cà phê với Công ty TNHH MTV C1 theo
Hợp đồng giao khoán số 76 Đ1/2012/HĐ ngày 04/6/2012. Ngày 30/10/2012,
Công ty ký hợp đồng với ông C, cho ông C thuê khoán diện tích đất nêu trên để
trồng cây Cà phê, thời hạn thực hiện hợp đồng từ ngày 04/6/2012 đến ngày
31/12/2035. Do bị giải thể nên năm 2017, UBND tỉnh Đ thu hồi đất của Công ty
TNHH MTV C1 và giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk quản lý tại
Quyết định số 07/QĐ-UBND ngày 04/01/2017, trong đó có thửa đất do ông Thạch
C đang sử dụng. Năm 2019, UBND tỉnh phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi
thực hiện Dự án Hạ tầng giao thông Khu dân cư phía Bắc tại phường T tại Quyết
định số 3125/QĐ-UBND ngày 28/10/2019. Ngày 01/12/2021, UBND thành phố
B đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi phí tổ chức thực hiện công
tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối với dự án nêu trên tại Quyết
định số 8601/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk và được
điều chỉnh tại Quyết định số 4633/QĐ-UBND ngày 09/8/2023, theo đó kinh phí
8
bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Thạch C là 300.299.284đ, trong đó bao gồm các
khoản bồi thường chi phí đầu tư và đất còn lại; bồi thường về vật kiến trúc và cây
trồng, hỗ trợ ổn định sản xuất, hỗ trợ khác. Ông Thạch C đã nhận tiền và bàn giao
mặt bằng cho đơn vị thi công thực hiện dự án.
[2.2]. Đối với yêu cầu của người khởi kiện về khoản tiền hỗ trợ đào tạo nghề
nghiệp và tìm kiếm việc làm:
Hộ gia đình ông Thạch C nhận thửa đất bị thu hồi từ Hợp đồng nhận khoán
và sử dụng đất vào mục đích nông nghiệp; hộ gia đình ông C có nguồn thu nhập
ổn định từ sản xuất nông nghiệp trên thửa đất số 28, tờ bản đồ số 7, diện tích
5.202,9m2. Theo Biên bản về việc xác minh hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản
xuất nông nghiệp ngày 14/12/2021 (BL 128) thì hộ ông Thạch C có 06 nhân khẩu,
trong đó: 06 nhân khẩu đều không thuộc đối tượng hưởng lương thường xuyên,
tại biên bản trên cũng xác định hộ ông Thạch C là hộ trực tiếp sản xuất nông
nghiệp và có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp.
Tại thời điểm Ủy ban nhân dân thành phố B thu hồi, phê duyệt phương án
bồi thường, hộ gia đình ông C có 06 nhân khẩu là những người đang trực tiếp sản
xuất nông nghiệp và có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp trên đất.
Ông C là công nhân của Công ty TNHH MTV C1 đã nghỉ thôi việc, được hưởng
trợ cấp năm 2016 nên căn cứ vào khoản 6 Điều 4 của Nghị định 01/2017/NĐ-CP
ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 20 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP thì ông C không thuộc diện được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề
và tìm kiếm việc làm khi nhà nước thu hồi đất, còn 05 nhân khẩu còn lại phải
được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định tại điểm
b khoản 2 Điều 83 Luật đất đai năm 2013 và tại điểm d khoản 1 Điều 19, khoản
1 Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ và khoản
1 Điều 18 Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ.
Tuy nhiên, tại Quyết định số 8601 và số 4633 UBND thành phố B đã ban hành
thì không có khoản hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm đối với
05/06 nhân khẩu cho hộ ông C là không đúng quy định pháp luật.
Do đó, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông
Thạch C, buộc Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk phải ban hành bổ sung
quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối
với hộ gia đình ông Thạch C với nội dung hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm
kiếm việc làm cho 05/06 nhân khẩu bao gồm bà Lê Thị Hải Y, chị Thạch Thị
Uyển T2, chị Thạch Thị Anh P, chị Thạch Thị Uyên P1 và anh Nguyễn Hải N1 là
có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.3]. Đối với khoản hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất:
Tại Đơn khởi kiện ngày 09/01/2024 (BL 89), ông C xác định việc UBND
thành phố B không Hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm trong phương
án bồi thường, hỗ trợ đối với gia đình ông là có thiếu sót, xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của gia đình nên ông khởi kiện đề nghị Tòa án hủy một phần
Quyết định số 8601/QĐ-UBND ngày 01/12/2021 của UBND thành phố B về việc
phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi phí tổ chức thực hiện công tác bồi
9
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng công trình: Hạ tầng giao
thông khu dân cư Phía B, phường T, thành phố B (đợt 1) và Quyết định số
4633/QĐ-UBND ngày 09/8/2023 về việc phê duyệt phương án điều chỉnh giá trị
bồi thường, hỗ trợ về tài sản, vật kiến trúc và các khoản hỗ trợ tại Quyết định số
8601/QĐ-UBND ngày 01/12/2021 của UBND thành phố B khi Nhà nước thu hồi
đất để xây dựng công trình: Hạ tầng giao thông khu dân cư Phía Bắc tại phường
T, thành phố B; buộc UBND thành phố B phải ban hành Quyết định phê duyệt bổ
sung Hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho 05 nhân khẩu còn
lại trong hộ gia đình ông.
Tại Bản tự khai ngày 05/3/2024 (BL 101); Biên bản về kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 16/4/2024 (BL 110) và ngày 07/5/2024
(BL 142), ông Lê Thanh T - người đại diện theo uỷ quyền của ông Thạch C trình
bày vẫn giữ nguyên các yêu cầu như trong đơn khởi kiện của ông Thạch C và
không thay đổi, bổ sung các yêu cầu khởi kiện. Trong Phần tranh luận tại phiên
toà sơ thẩm, ông Lê Thanh T mới đưa ra yêu cầu buộc người bị kiện phải phê
duyệt bổ sung nội dung Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất cho hộ ông Thạch C.
Như vậy, trước ngày Toà án thông báo cho người khởi kiện về việc kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và trước khi xét xử sơ thẩm vụ án,
người khởi kiện không bổ sung yêu cầu khởi kiện nhưng khi xét xử sơ thẩm, Toà
án cấp sơ thẩm lại quyết định buộc Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
phải ban hành bổ sung Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất đối với hộ gia đình ông Thạch C theo quy định của pháp
luật, trong đó có phần bổ sung nội dung “hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất” là
vi phạm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, giải quyết vượt quá yêu
cầu khởi kiện của người khởi kiện theo quy định tại Điều 5, Điều 8, khoản 1 Điều
173 của Luật Tố tụng hành chính.
[3]. Từ các nhận định tại mục [2] nêu trên của bản án, Hội đồng xét xử chấp
nhận một phần kháng cáo của ông Lê Đại T1, người đại diện theo uỷ quyền của
người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố B, sửa một phần Bản án hành chính sơ
thẩm số 115/2024/HC-ST ngày 01/8/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
[4]. Về án phí: do kháng cáo được chấp nhận nên Ủy ban nhân dân thành phố
B không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính.
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Lê Đại T1 là người đại diện theo uỷ
quyền của người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; sửa Bản án
hành chính sơ thẩm số 115/2024/HC-ST ngày 01/8/2024 của Toà án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
10
2. Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, khoản 1 Điều 115, điểm a
khoản 2 Điều 116, Điều 157, Điều 158, Điều 193, Điều 194, Điều 206 Luật Tố
tụng hành chính; Điều 66, 69, 83, 84 Luật Đất đai năm 2013; Điều 19, 20 Nghị
định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ và khoản 5, khoản 6 Điều
4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ;
Tuyên xử: chấp nhận một phần Đơn khởi kiện của ông Thạch C.
Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk phải ban hành bổ sung
Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối
với hộ gia đình ông Thạch C theo quy định của pháp luật, trong đó bổ sung nội
dung hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho 05/06 nhân khẩu
cho hộ ông Thạch C khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm các nhân khẩu: bà Lê Thị
Hải Y, chị Thạch Thị Uyển T2, chị Thạch Thị Anh P, chị Thạch Thị Uyên P1, anh
Nguyễn Hải N1.
3. Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính; áp dụng
khoản 7 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án;
Người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố B không phải chịu án phí hành
chính phúc thẩm. Hoàn trả cho Ủy ban nhân dân thành phố B 300.000 (ba trăm
nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0014051
ngày 19/9/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk.
4. Phần quyết định đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Thạch C về việc yêu
cầu hủy 01 phần Quyết định số 8601/QĐ-UBND ngày 01/12/2021 và Quyết định
số 4633/QĐ-UBND ngày 09/8/2023 của UBND thành phố B, tỉnh Đắk Lắk về
việc phê duyệt, phê duyệt điều chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng công trình: Hạ tầng giao thông Khu dân cư
P, phường T, thành phố B và phần quyết định về án phí sơ thẩm của Bản án sơ
thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- Cục THADS tỉnh Đắk Lắk;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu: HSVA, P HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Trần Đức Kiên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm