Bản án số 110/2025/HC-PT ngày 11/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 110/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 110/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 110/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 110/2025/HC-PT ngày 11/02/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 110/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/02/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Y án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 110/2025/HC-PT
Ngày 11-02-2025.
V/v Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Ngọc Tuấn.
Các Thẩm phán:
Ông Dương Anh Văn.
Ông Nguyễn Đắc Minh.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên – Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Đỗ Xuân Lượng – Kiểm sát viên.
Ngày 11/02/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 883/2024/TLPT-HC
ngày 22/10/2024 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý
đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2024/HC-ST ngày 02/7/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 61/2025/QĐPT-HC ngày
17/01/2025 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Ngô Hồng K, sinh năm 1953; địa chỉ: Khóm E, thị
trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện:
+ Bà Trần Ngọc H, sinh năm 1994. (vắng mặt)
+ Ông Lê Nhật A, sinh năm 1998. (có mặt)
Cùng địa chỉ: A M, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
+ Bà Hà Thị T, sinh năm 1963; địa chỉ: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà
Mau. (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Ông Phan Đăng
H1, Luật sư thuộc Công ty L1; địa chỉ: A M, phường A, quận N, thành phố Cần
Thơ. (có mặt)
- Người bị kiện: Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh C.
2
Người đại diện theo pháp luật của người bị kiện: Ông Trương Thanh T1,
Giám đốc Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh C. (xin xét xử vắng mặt)
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Cà Mau. (xin xét xử vắng mặt)
+ Ngân hàng TMCP Đ.
Người đại diện hợp pháp: Ông Tô Thanh L, Giám đốc Phòng G – Chi nhánh
C; địa chỉ: Khóm G, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau. (có mặt)
+ Bà Hà Thị T, sinh năm 1963; địa chỉ: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà
Mau. (có mặt)
- Người kháng cáo: Ông Ngô Hồng K, là người khởi kiện; Ngân hàng TMCP
Đ, là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơnkiện và quá trình tham gia tố tụng, người khởi kiện và người đại diện
hợp pháp của người khởi kiện trình bày:
Ngày 26/9/2019, Văn phòng Đ (gọi tắt là VPĐKĐĐ) tỉnh Cà Mau cấp Giấy
chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS
813452 (gọi tắt là Giấy chứng nhận) cho ông Ngô Hồng K, diện tích 220,3m
2
đất,
thuộc thửa đất số 85, tờ bản đồ số 77, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau. Đến ngày
26/9/2023, ông K nhận được Quyết định số 98/QĐ-VPĐKĐĐ của VPĐKĐĐ tỉnh C
về việc thu hồi Giấy chứng nhận nêu trên (viết tắt Quyết định số 98). Nhận thấy
Quyết định này xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên ông K khởi
kiện yêu cầu Toà án tuyên huỷ Quyết định số 98.
Tại Công văn số 194/VPĐKĐĐ-ĐKCG ngày 16/02/2024, Văn phòng Đăng ký
đất đai tỉnh C trình bày ý kiến:
Ngày 26/9/2019, VPĐKĐĐ thừa ủy quyền của Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh C cấp Giấy chứng nhận cho ông Ngô Hồng K đối với diện tích đất 220,3m
2
,
thửa số 85, tờ bản đồ số 77. Sau khi rà soát lại hồ sơ cấp Giấy chứng nhận, đối
chiếu với quy định của pháp luật, thì việc cấp Giấy chứng nhận cho ông K là chưa
đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013, lý
do: Phần đất ông K đang quản lý, sử dụng thì ngày 09/5/2016, UBND huyện T đã
cấp Giấy chứng nhận cho ông K. Đến ngày 03/12/2018, UBND huyện T ban hành
Quyết định số 299/QĐ-UBND (gọi tắt là Quyết định số 299) về việc thu hồi Giấy
chứng nhận do cấp không đúng quy định, nên việc cấp Giấy chứng nhận QSD đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Ngô Hồng K là thuộc
thẩm quyền của UBND huyện T. Trên cơ sở đó, VPĐKĐĐ ban hành Quyết định số
98 về việc thu hồi Giấy chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn
liền với đất số CS 813452 với diện tích 220,3m
2
, thuộc thửa số 85, tờ bản đồ số 77
đứng tên ông Ngô Hồng K là đúng quy định của pháp luật.
Tại Công văn số 2669 ngày 28/6/2024 của UBND huyện T và tài liệu UBND
huyện cung cấp, thể hiện nội dung:
3
Ông Ngô Hồng K được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận số CC 545811
ngày 09/5/2016, thửa số 85, tờ bản đồ số 77, diện tích 224,3m
2
. Qua rà soát thì phát
hiện việc xác minh nguồn gốc đất chưa đúng, trình tự cấp chưa đảm bảo nên
UBND Huyện ban hành Quyết định 299, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp cho ông
K. Ông K khiếu nại Quyết định 299, Chủ tịch UBND Huyện ra Quyết định số
2684/QĐ-UBND ngày 20/5/2019, giải quyết khiếu nại (lần đầu), giữ nguyên Quyết
định số 299. Ông K tiếp tục khiếu nại.
Ngày 22/8/2019, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh C tổ chức đối thoại với
ông Ngô Hồng K. Tại buổi đối thoại, UBND huyện T đồng ý công nhận QSD đất
cho ông K theo hiện trạng đã cấp trước đây, nhưng trừ lại 04m
2
(ngang 02m x dài
02m) đất để mở đường cho 05 hộ dân đấu nối vào giao lộ giáp thửa đất ông K và
ông Dương Minh T2. Việc cấp lại Giấy chứng nhận sẽ được tiến hành đúng theo
trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Ông K đồng ý rút đơn khiếu nại.
Ngày 18/9/2019, Chi nhánh VPĐKĐĐ Huyện nhận được hồ sơ xin cấp đổi lại
Giấy chứng nhận của ông K. Đến ngày 26/9/2019, VPĐKĐĐ Tỉnh thừa ủy quyền
Giám đốc Sở T cấp Giấy chứng nhận số CS 813452 cho ông K, với diện tích
220,3m
2
, thửa đất số 85, tờ bản đồ số 77.
Do có khiếu nại của các hộ dân về cấp Giấy chứng nhận cho ông K, Chủ tịch
UBND tỉnh C thành lập tổ xác minh, kiểm tra làm rõ nguồn gốc, quá trình quản lý,
sử dụng đất; kiểm tra quy trình cấp Giấy chứng nhận cho ông K. Tại Báo cáo số
01/BC-TXM ngày 16/01/2023 của Tổ xác minh kết luận: Việc cấp lại Giấy chứng
nhận trong trường hợp này thuộc thẩm quyền của UBND huyện theo quy định tại
khoản 2 Điều 105 Luật Đất đai.
Ngày 31/8/2023, Giám đốc VPĐKĐĐ Tỉnh ban hành Quyết định số 98/QĐ-
VPĐKĐĐ về việc thu hồi Giấy chứng nhận.
Từ nội dung trên, xác định việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Ngô
Hồng K là đúng quy định của pháp luật. Do đó, UBND huyện Trần Văn T3 không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông K.
Đại diện Ngân hàng TMCP Đ - Chi nhánh C - Phòng G (viết tắt là B) trình
bày:
B nhận thế chấp Giấy chứng nhận đứng tên Ngô Hồng K, trường hợp ông K
được cấp lại giảm đi 04m
2
thì tài sản thế chấp cũng không ảnh hưởng đến khoản
vay.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2024/HC-ST ngày 02/7/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Cà Mau đã quyết định (tóm tắt):
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Hồng K đối với yêu cầu hủy Quyết định
số 98/QĐ-VPĐKĐĐ ngày 31/8/2023 về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS 813452 do Văn
phòng Đăng ký đất đai thừa ủy quyền Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
C ký cấp cho ông Ngô Hồng K ngày 26/9/2019, tại thửa đất số 85, tờ bản đồ số 77,
với diện tích 220,3m
2
địa chỉ thửa đất tại Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà
Mau.
4
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 15/7/2024, ông Ngô Hồng K kháng cáo yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm
theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Ngày 16/7/2024, B kháng cáo yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Người khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Người khởi kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan (B) giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu ý kiến:
Về tố tụng: Từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án cho đến khi xét xử,
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và đương sự đã thực hiện đầy đủ và
đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Kháng cáo của Người khởi kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan (B) đề nghị sửa Bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Người
khởi kiện đối với Người bị kiện là không có căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận các yêu cầu kháng cáo nêu trên, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Các đơn Kháng cáo của người khởi kiện là ông Ngô Hồng K và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là B làm trong hạn luật định, đủ điều kiện để thụ lý,
giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của ông Ngô Hồng K và B, thấy rằng: Ngày 09/5/2016, ông
Ngô Hồng K được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận số CC 545811, thửa số
85, tờ bản đồ số 77, thị trấn S, diện tích 224,3m
2
, nhưng đến ngày 03/12/2018, thì
ra Quyết định 299 thu hồi Giấy chứng nhận nêu trên do cấp không đúng quy định
của pháp luật. Ông K khiếu nại Quyết định số 299, Chủ tịch UBND huyện ra Quyết
định số 2684/QĐ-UBND ngày 20/5/2019, giải quyết khiếu nại lần đầu, giữ nguyên
Quyết định số 299. Ông K tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh C. Kết quả
đối thoại giữa các bên như sau: UBND huyện T đồng ý công nhận quyền sử dụng
đất cho ông K theo hiện trạng đã cấp trước đây, nhưng trừ lại 04m
2
đất để mở
đường cho 05 hộ dân đấu nối vào giao lộ bê-tông giáp thửa đất ông K và ông
Dương Minh T2. Việc cấp lại Giấy chứng nhận sẽ được tiến hành đúng theo trình
tự, thủ tục quy định của pháp luật. Ông K đồng ý rút đơn khiếu nại.
[3] Ngày 18/9/2019, Chi nhánh VPĐKĐĐ huyện Trần Văn T3 nhận được hồ
sơ xin cấp đổi lại Giấy chứng nhận của ông K đối với thửa đất số 85. Đến ngày
26/9/2019, VPĐKĐĐ tỉnh Cà Mau thừa ủy quyền Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh C cấp Giấy chứng nhận số CS 813452 cho ông K, với diện tích
220,3m
2
, thửa đất số 85, tờ bản đồ số 77, nhưng sau đó ban hành Quyết định số
98/QĐ-VPĐKĐĐ ngày 31/8/2023, thu hồi Giấy chứng nhận nêu trên.
5
[4] Xét thấy, năm 2016, ông K được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận lần
đầu đối với thửa đất số 85, nhưng sau đó đã bị thu hồi lại Giấy chứng nhận này
(theo Quyết định số 299). Trường hợp này xem như ông K chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo quy định tại khoản 2 Điều 105 của Luật Đất
đai năm 2013 thì “Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở
gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam”. Theo quy định này thì khi ông K
nộp đơn xin cấp Giấy chứng nhận đối với thửa đất trên thì UBND huyện Trần Văn
T3 là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét cấp, nhưng VPĐKĐĐ huyện Trần Văn
T3 thực hiện việc cấp đổi Giấy chứng nhận cho ông K trong khi ông K chưa được
cấp Giấy chứng nhận lần đầu là không đúng quy định của pháp luật về đất đai. Do
đó, VPĐKĐĐ thực hiện việc thu hồi lại Giấy chứng nhận nêu trên là đúng quy định
tại điểm d khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai năm 2013.
[5] Sau khi được VPĐKĐĐ cấp Giấy chứng nhận đối với thửa đất số 85, ông
K đã thế chấp thửa đất này cho B để vay tiền. Tuy nhiên, VPĐKĐĐ tỉnh C không
phải là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận cho ông K và đã thu
hồi Giấy chứng nhận này nên thẩm quyền cấp lại Giấy chứng nhận thuộc UBND
huyện T. Trường hợp này không phải thu hồi đất của ông K nên quyền và lợi ích
hợp pháp của B vẫn được bảo vệ khi ông K được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
cấp lại Giấy chứng nhận.
[6] Từ nội dung trên, xác định việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp cho ông
Ngô Hồng K là đúng quy định của pháp luật. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Hồng K đối với VPĐKĐĐ tỉnh C
là có căn cứ, đúng pháp luật.
[7] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[8] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận
định trên nên chấp nhận.
[9] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan (B) không được chấp nhận nên B phải chịu án phúc phúc thẩm. Riêng ông K
thuộc diện người cao tuổi nên được miễn án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính,
Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện là ông Ngô Hồng K; kháng
cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng TMCP Đ. Giữ nguyên
Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2024/HC-ST ngày 02-7-2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Cà Mau.
Áp dụng: khoản 2 Điều 105, điểm d khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai năm
2013; khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 34 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
6
ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Hồng K về hủy Quyết
định số 98/QĐ-VPĐKĐĐ ngày 31/8/2023 về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS 813452 do Văn
phòng Đăng ký đất đai thừa ủy quyền Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
C ký cấp cho ông Ngô Hồng K ngày 26/9/2019, tại thửa đất số 85, tờ bản đồ số 77,
với diện tích 220,3m
2
địa chỉ thửa đất tại khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
2. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí phúc thẩm:
- Ông Ngô Hồng K được miễn nộp án phí hành chính phúc thẩm.
- Ngân hàng TMCP Đ phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí phúc
thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí đã
nộp theo Biên lai số 0000204 ngày 16/7/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Cà
Mau. Ngân hàng TMCP Đ đã nộp đủ án phí phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Cà Mau;
- VKSND tỉnh Cà Mau;
- Cục THADS tỉnh Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu VP; HSVA; NTK.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Ngọc Tuấn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm