Bản án số 11/2024/HNGĐ-ST ngày 13/06/2024 của TAND huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 11/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 11/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 11/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 11/2024/HNGĐ-ST ngày 13/06/2024 của TAND huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Vụ Bản (TAND tỉnh Nam Định) |
Số hiệu: | 11/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 13/06/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị Trần Thị Kim H xin ly hôn với anh Nguyễn Chí T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN V B
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 11/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 13-06-2024
“V/v chị Hxin ly hôn anh T”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V B, TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Vũ Văn Quân.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Phạm Thị Kim Lệ.
2. Bà Trần Thị Định.
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Thanh Thảo là Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân huyện V B, tỉnh Nam Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V B tham gia phiên tòa: Ông
Đỗ Mạnh Hùng - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V B, tỉnh
Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 23/2024/TLST-HNGĐ ngày
04 tháng 3 năm 2024 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 10/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm
2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Kim H, sinh năm 1986.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi đang ở hiện nay: Thôn Đồng Tiến,
xã Đ T, huyện V B, tỉnh Nam Định.
Nơi đăng ký tạm trú: Chợ Hầu, xã L M, huyện V B, tỉnh Nam Định.
(Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Chí T, sinh năm 1988.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 6, xã P M, huyện C L, tỉnh Đồng
Tháp.
Nơi đăng ký tạm trú: Chợ Hầu, xã L M, huyện V B, tỉnh Nam Định.
Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thủ Dầu Một,
tỉnh Bình Dương.
(Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
* Tại đơn khởi kiện ngày 29-02-2024, bản tự khai ngày 04-3-2024, đơn đề
nghị ngày 27-5-2024 và lời khai trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là
chị Trần Thị Kim H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Qua sự tìm hiểu chị và anh Nguyễn Chí T đã tự
nguyện kết hôn với nhau vào ngày 28-7-2014 và có đăng ký kết hôn tại UBND
xã P M, huyện C L, tỉnh Đồng Tháp và đã được UBND xã P M, huyện C L, tỉnh
Đồng Tháp cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 120/2014, quyển số: 01/2014, ngày
28-7-2014. Sau khi chị và anh T kết hôn với nhau thì chị và anh T làm ăn sinh
sống tại quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian đầu sau khi kết hôn
thì vợ chồng rất yêu thương, quan T, chăm sóc lẫn nhau. Cuộc sống chung của
vợ chồng khi đó cũng khá đầm ấm và hạnh phúc. Sau đó đến khoảng tháng 4-
2017, do đặc thù công việc làm của chị nên vợ chồng chị đã phải chuyển ra ngoài
bắc để làm ăn và vợ chồng chị đã chuyển về khu vực chợ Hầu, xã L M, huyện V
B, tỉnh Nam Định để ở và làm ăn, sinh sống và vợ chồng chị đã đến Công an xã
L M và UBND xã L M, huyện V B đăng ký tạm trú tại địa chỉ tạm trú ở khu vực
chợ Hầu, xã L M, huyện V B, tỉnh Nam Định. Sau khi vợ chồng chuyển ra ngoài
bắc sinh sống thì thời gian đầu vợ chồng vẫn chung sống hoà thuận, hạnh phúc.
Tuy nhiên, đến ngày 04-9-2021 thì chị đã phát hiện ra việc anh T có quan hệ tình
cảm nam, nữ bất chính với một người phụ nữ khác chính vì vậy đã dẫn đến tình
cảm của vợ chồng bị rạn nứt, vợ chồng không còn thương yêu, quan T, chăm sóc
lẫn nhau nữa, trong cuộc sống thường ngày thì vợ chồng thường hay xảy ra xô
sát, cãi, chửi nhau nên vợ chồng chung sống với nhau không có tình cảm và
không có hạnh phúc, mâu thuẫn của vợ chồng thì ngày càng căng thẳng và trầm
trọng hơn. Khi chị phát hiện ra anh T có quan hệ tình cảm nam, nữ bất chính với
người phụ nữ khác thì chị và gia đình hai bên đã rất nhiều lần khuyên can,
khuyên ngăn anh T nhưng mà anh T vẫn không từ bỏ quan hệ với người phụ nữ
đó và cũng không chịu thay đổi bản thân được gì. Do đó, vợ chồng chị đã phải
sống ly thân, chấm dứt quan hệ tình cảm vợ chồng cũng như quyền, nghĩa vụ vợ
chồng với nhau suốt từ thời điểm cuối năm 2021 cho đến nay. Sau khi vợ chồng
sống ly thân với nhau thì một mình anh T sinh sống tại khu vực chợ Hầu, xã L M
còn mẹ con chị thì về nhà của bố, mẹ đẻ của chị ở thôn Đồng Tiến, xã Đ T,
huyện V B để ở và sinh sống. Sau khi vợ chồng sống ly thân với nhau được một
thời gian thì anh T đã quay trở vào trong miền nam và đến khoảng tháng 3-2023
thì anh T bị Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương bắt, giữ về tội
Hiếp dâm. Đến nay, mâu thuẫn của vợ chồng chị đã kéo dài và trầm trọng, bản
thân chị cũng không còn có một chút tình cảm, tình nghĩa vợ chồng gì đối với
anh T nữa, mặt khác thì đời sống chung của vợ chồng chị cũng không còn tồn tại
từ nhiều năm nay nên mục đích của hôn nhân của vợ chồng chị không còn đạt
được. Do đó, chị yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết cho chị được ly hôn với anh
T.
Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là các cháu Nguyễn Minh Đ,
sinh ngày 12-6-2015 và Nguyễn Ngọc Kim S, sinh ngày 31-01-2020. Chị đã trực
3
tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 con chung của vợ chồng
suốt từ thời điểm vợ chồng chị sống ly thân với nhau cho đến nay. Ly hôn, chị
yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con
chung của vợ chồng và chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi 02 con
chung cùng với chị. Lý do chị muốn trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung là vì
hiện nay anh T vẫn còn đang bị giam giữ và cả 02 con chung của vợ chồng chị
đều còn nhỏ nên chị là mẹ, chị trực tiếp nuôi dưỡng thì sẽ tốt hơn và phù hợp
hơn. Hiện nay chị có đầy đủ các điều kiện cần thiết để có thể trực tiếp nuôi
dưỡng cả 02 con chung của vợ chồng, nếu chị được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02
con chung thì chị sẽ đảm bảo tốt được quyền, lợi ích của các con.
Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung, nợ riêng và những vấn đề
khác có liên quan: Chị và anh T không có khoản nào. Vì vậy, chị không yêu cầu
Tòa án xem xét, giải quyết.
Vì lý do anh T hiện nay đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành
phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nên anh T không thể đi về Tòa án để tham
gia tố tụng giải quyết vụ án được; ngoài ra thì công việc làm của chị tại Công ty
cũng rất bận rộn, chị không thể xin phép công ty cho chị nghỉ làm để đến Tòa án
làm việc nhiều lần được. Do đó, chị đề nghị Tòa án không tiến hành phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải về vụ án của vợ
chồng chị và chị đề nghị Tòa án xem xét tạo điều kiện về thời gian giải quyết vụ
án cho chị và cho phép chị được vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án tiến hành
tố tụng giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án.
* Tại biên bản lấy lời khai ngày 20-5-2024 do Toà án nhân dân thành phố
Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thực hiện và đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt
ngày 20-5-2024, bị đơn là anh Nguyễn Chí T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Qua sự tìm hiểu anh và chị Trần Thị Kim H đã tự
nguyện kết hôn với nhau vào năm 2014 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã P M,
huyện C L, tỉnh Đồng Tháp, theo giấy chứng nhận kết hôn số: 120/2014, quyển
số: 01/2014, ngày 28-7-2014. Sau khi anh và chị Hkết hôn với nhau thì anh và
chị Hlàm ăn, sinh sống tại quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó đến
khoảng tháng 4-2017, do điều kiện công việc làm của chị Hnên vợ chồng anh đã
chuyển hết về quê của chị H và vợ chồng anh đã thuê nhà tại khu vực chợ Hầu,
xã L M, huyện V B, tỉnh Nam Định để ở và làm ăn, sinh sống và vợ chồng anh
đã đăng ký tạm trú tại Công an xã L M và UBND xã L M tại địa chỉ tạm trú ở
khu vực chợ Hầu, xã L M, huyện V B. Sau khi anh và chị Hkết hôn với nhau
cũng như sau khi vợ chồng anh chuyển ra ngoài bắc sinh sống thì vợ chồng anh
vẫn chung sống hòa thuận, hạnh phúc với nhau. Tuy nhiên, đến khoảng tháng 9-
2021 thì vợ chồng anh bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu
thuẫn là do tính cách của vợ chồng không hợp nhau và bất đồng quan điểm sống,
không có tiếng nói chung. Từ cuối năm 2021 thì mâu thuẫn của vợ chồng anh
xảy ra trầm trọng nên anh và chị Hđã phải sống ly thân với nhau. Sau khi vợ
chồng anh sống ly thân với nhau thì anh đi vào trong thành phố Thủ Dầu Một,
4
tỉnh Bình Dương để ở và làm ăn, sinh sống và anh đã có tình cảm với một người
phụ nữ khác. Khi anh và chị H xảy ra mâu thuẫn với nhau thì vợ chồng có nói
chuyện với nhau để tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Nay
chị Hxin ly hôn với anh thì anh cũng đồng ý ly hôn với chị H.
Về con chung: Anh và chị Hcó 02 con chung là các cháu Nguyễn Minh Đ,
sinh ngày 12-6-2015 và Nguyễn Ngọc Kim S, sinh ngày 31-01-2020. Chị H là
người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 con chung của
vợ chồng suốt từ khi các cháu còn nhỏ cho đến nay. Do hiện nay anh đang bị tạm
giam nên anh đồng ý để cho chị H tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục cả 02 con chung của vợ chồng và hiện nay anh đang bị tạm
giam nên anh không có khả năng để cấp dưỡng nuôi con cùng với chị H do đó
anh sẽ không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung, nợ riêng và những vấn đề
khác có liên quan: Anh và chị H không có khoản nào. Vì vậy, anh không yêu cầu
Tòa án xem xét, giải quyết.
Tòa án nhân dân huyện V B, tỉnh Nam Định thụ lý và giải quyết vụ án chị
Hxin ly hôn anh tại Toà án nhân dân huyện V B thì anh hoàn toàn đồng ý với
việc Toà án nhân dân huyện V B thụ lý và giải quyết vụ án, anh không có thắc
mắc hoặc khiếu nại gì, ngoài ra anh còn đề nghị Toà án giải quyết và xét xử vụ
án vắng mặt của anh.
* Tại biên bản lấy lời khai ngày 27-5-2024, cháu Nguyễn Minh Đ trình bày:
Cháu là con của bố T và mẹ H. Hiện nay cháu đang trực tiếp ở cùng với mẹ và
ông, bà ngoại của cháu ở thôn Đồng Tiến, xã Đ T, huyện V B. Do cháu còn nhỏ
nên cháu không biết được cụ thể về sự mâu thuẫn giữa bố cháu và mẹ cháu như
thế nào. Cháu chỉ biết bố, mẹ cháu không còn chung sống cùng với nhau đã từ
lâu rồi. Nếu bố, mẹ cháu phải ly hôn với nhau thì cháu có nguyện vọng trực tiếp
ở cùng với mẹ cháu. Nguyện vọng cháu ở cùng với mẹ cháu là do cháu hoàn toàn
tự nguyện, không bị ai xúi giục hoặc ép buộc gì.
* Tại biên bản thu thập chứng cứ ngày 20-5-2024, đại diện UBND xã Đ T,
huyện V B, tỉnh Nam Định cung cấp như sau:
Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Chí T và chị Trần Thị Kim H không có
đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ T. Thời điểm, anh T và chị Hkết hôn
với nhau thì UBND xã Đ T có ký giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của chị
Htheo quy định của pháp luật để cho chị H đi đăng ký kết hôn với anh T tại
UBND xã P M, huyện C L, tỉnh Đồng Tháp.
Về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn của vợ chồng chị H, anh T thì địa
phương không nắm bắt được cụ thể như thế nào, vì sau khi chị Hvà anh T kết
hôn với nhau thì chị H và anh T không sinh sống ở địa phương mà chủ yếu là
sinh sống và làm ăn ở trong thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó đến khoảng năm
2018 thì vợ chồng chị H, anh T mới chuyển về khu vực chợ Hầu, xã L M, huyện
V B, tỉnh Nam Định để ở và làm ăn, sinh sống và anh, chị ấy đăng ký tạm trú tại
Công an xã L M và UBND xã L M. Đến khoảng cuối năm 2021 thì địa phương
5
mới thấy chị Hđưa cả 02 con chung của vợ chồng về nhà bố, mẹ đẻ của chị H ở
thôn Đồng Tiến, xã Đ T, huyện V B để ở và sinh sống chung cùng với bố, mẹ đẻ
của chị H. Từ khi chị H đưa 02 con chung của vợ chồng về nhà bố, mẹ đẻ của chị
Hđể ở và sinh sống thì địa phương không thấy anh T về đó ở cùng với lại mẹ con
chị H. Hiện nay thì chị Trần Thị Kim H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn
Đồng Tiến, xã Đ T, huyện V B, tỉnh Nam Định và chị H cùng với 02 con thường
xuyên sinh sống và cư trú tại thôn Đồng Tiến, xã Đ T.
Về con chung: Địa phương được biết anh Nguyễn Chí T và chị Trần Thị
Kim H có 02 con chung là các cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 12-6-2015 và
Nguyễn Ngọc Kim S, sinh ngày 31-01-2020 và địa phương thấy chị H đã trực
tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 con chung của vợ chồng
suốt từ thời điểm chị H và anh T sống ly thân với nhau cho đến nay.
Hiện nay chị H đang làm việc tại Công ty trách nhiệm hữu hạn thời trang
MAN WING SING Việt Nam, chị H có chỗ ở ổn định, hàng tháng có thu nhập
ổn định và có khả năng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con được tốt và bảo
đảm được quyền, lợi ích của các con theo quy định của pháp luật.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V B tham gia phiên tòa phát biểu
ý kiến và trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Thư ký Tòa án trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như của Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án tại
phiên tòa.
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của các đương sự.
Về yêu cầu khởi kiện của đương sự: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào
các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147
của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị
Trần Thị Kim H.
Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Kim H và anh Nguyễn
Chí T.
Về nuôi con chung: Giao cả 02 con chung của chị Trần Thị Kim H và anh
Nguyễn Chí T là các cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 12-6-2015 và Nguyễn
Ngọc Kim S, sinh ngày 31-01-2020 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục. Không buộc anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung
cùng chị H.
Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung, nợ riêng và những vấn đề
khác có liên quan: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên, không đặt ra
xem xét, giải quyết.
Về án phí ly hôn sơ thẩm: Buộc chị Trần Thị Kim H phải nộp toàn bộ theo
quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
6
[1] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập và đã thông báo anh
Nguyễn Chí T là bị đơn trong vụ án về Tòa án nhân dân huyện V B để tham gia tố
tụng giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật nhưng vì anh T đang bị tạm
giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nên anh
T không thể về Tòa án để tham gia tố tụng giải quyết vụ án được nên anh T đã có
đơn đề nghị Tòa án tiến hành tố tụng giải quyết vụ án vắng mặt của anh T. Do
vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được; tại phiên tòa cả nguyên đơn và bị đơn
trong vụ án đều vắng mặt nhưng cả nguyên đơn và bị đơn đều đã có đơn đề nghị
Tòa án xét xử vắng mặt của mình. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1
Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử sơ
thẩm vụ án vắng mặt của cả nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về quan hệ pháp luật của vụ án: Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp
luật tranh chấp của vụ án là “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”.
[3] Về nội dung vụ án:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân của chị Hvà anh T: Xét chị H và anh T đã tự
nguyện kết hôn với nhau vào ngày 28-7-2014 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã
P M, huyện C L, tỉnh Đồng Tháp và UBND xã P M, huyện C L, tỉnh Đồng Tháp
cấp giấy chứng nhận kết hôn cho chị Hvà anh T theo đúng quy định của pháp
luật. Như vậy, hôn nhân của chị H và anh T là hôn nhân hợp pháp, đã thỏa mãn
đầy đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại các Điều 8 và 9 của Luật Hôn nhân và
gia đình. Nên, được pháp luật bảo vệ.
Về tình trạng hôn nhân của chị H và anh T: Xét sau khi chị H và anh T kết
hôn với nhau thì vợ chồng đã có khoảng thời gian chung sống hòa thuận hạnh
phúc với nhau được 07 năm, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát
sinh mâu thuẫn của vợ chồng chị H, anh T chủ yếu là do anh T có phát sinh quan
hệ tình cảm nam, nữ bất chính với một người phụ nữ khác, ngoài ra còn do tính
cách của chị H và anh T không hợp nhau và luôn bất đồng quan điểm sống từ đó
đã dẫn đến trong cuộc sống chung, vợ chồng chị H, anh T thường hay xảy ra xô
sát, cãi, chửi nhau và vợ chồng không còn tôn trọng, yêu thương nhau và quan T
chăm sóc lẫn nhau như trước đó nữa và mâu thuẫn của vợ chồng thì ngày lại càng
căng thẳng và trầm trọng hơn do đó chị H và anh T đã phải sống ly thân, chấm dứt
quan hệ tình cảm vợ chồng cũng như quyền và nghĩa vụ vợ chồng với nhau suốt
từ thời điểm cuối năm 2021 cho đến nay. Xét thực trạng hôn nhân hiện nay của vợ
chồng chị H, anh T thấy đã vi phạm nghiêm trọng những quy định về quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ giữa vợ và chồng theo quy định tại các Điều
17, 19, 20, 21 của Luật Hôn nhân và gia đình làm cho hôn nhân của vợ chồng đã
lâm vào tình trạng trầm trọng và trên thực tế thì đời sống chung của vợ chồng chị
H, anh T cũng không còn tồn tại từ nhiều năm nay. Nên, mục đích của hôn nhân
của vợ chồng chị H, anh T nay không còn đạt được; ngoài ra còn thấy chị Hxin ly
hôn với anh T, anh T cũng đồng ý ly hôn điều đó chứng tỏ đời sống chung giữa
chị Hvới anh T không thể kéo dài thêm được nữa. Do đó, việc chị H xin ly hôn
với anh T là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với thực trạng hôn nhân hiện nay của
7
vợ chồng chị H, anh T. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51 và 56 của
Luật Hôn nhân và gia đình, xử ly hôn giữa chị H và anh T là phù hợp với quy định
của pháp luật cũng như thực trạng hôn nhân của vợ chồng chị H, anh T hiện nay.
[3.2] Về con chung của chị Hvà anh T: Xét chị H và anh T có 02 con chung
là các cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 12-6-2015 và Nguyễn Ngọc Kim S, sinh
ngày 31-01-2020. Chị H là người đã trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục cả 02 con chung của vợ chồng suốt từ thời điểm vợ chồng chị H, anh T
sống ly thân với nhau cho đến nay. Ly hôn thì chị H có nguyện vọng được tiếp tục
trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung của vợ chồng và không yêu cầu anh T phải
cấp dưỡng nuôi con chung cùng với chị, còn anh T thì cũng có quan điểm đồng ý
để cho chị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung của vợ chồng và anh
không có khả năng cấp dưỡng nuôi con cho chị H.
Xét điều kiện nuôi con của chị H và anh T thì thấy hiện nay chị H có đầy đủ
các điều kiện cần thiết để có thể trực tiếp nuôi dưỡng được cả 02 con chung của
vợ chồng và chị H cũng có thể bảo đảm tốt được quyền lợi của các con, còn phía
anh T thì thấy hiện nay anh T vẫn còn đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, mặt khác còn thấy cháu Đăng cũng có
nguyện vọng muốn được trực tiếp ở cùng với chị H. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ
giao cả 02 con chung của vợ chồng chị H, anh T cho chị H tiếp tục trực tiếp trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và không buộc anh T phải cấp dưỡng nuôi
02 con chung cùng với chị H là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83
của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3.3] Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung, nợ riêng và những vấn
đề khác có liên quan của chị H và anh T: Xét cả chị Hvà anh T đều xác định vợ
chồng không có và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Do đó, Hội đồng
xét xử không xem xét, giải quyết.
[4] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị Kim H là nguyên đơn. Do đó,
buộc chị Hphải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Kim H.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Kim H và anh Nguyễn
Chí T.
2. Về nuôi con chung: Giao các cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 12-6-2015
và Nguyễn Ngọc Kim S, sinh ngày 31-01-2020 cho chị Trần Thị Kim H trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
8
Anh Nguyễn Chí T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Trần Thị
Kim H.
Anh Nguyễn Chí T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai
được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh
hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của chị
Trần Thị Kim H.
3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Buộc chị Trần Thị Kim H phải nộp 300.000đ (Ba
trăm nghìn đồng). Nhưng được đối trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
chị Trần Thị Kim Hđã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0000815 ngày 04-3-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V B,
tỉnh Nam Định.
4. Quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Kim H và anh Nguyễn Chí T có quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ
ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Nam Định;
- VKSND tỉnh Nam Định;
- VKSND huyện V B;
- CCTHADS huyện V B;
- UBND xã P M;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu VP Tòa án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Văn Quân
9
.
Tải về
Bản án số 11/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 11/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm