Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST ngày 11/04/2025 của TAND huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST ngày 11/04/2025 của TAND huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Triệu Phong (TAND tỉnh Quảng Trị) |
Số hiệu: | 10/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Trương Thị Thanh H và ông Lê Quang T yêu nhau tự nguyện, đăng ký kết hôn vào năm 2015, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị. Sau kết hôn, vợ chồng sinh sống và làm việc tại thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị. Mặc dù thời gian vợ chồng chung sống với nhau không dài nhưng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là quan niệm sống và cách nhìn nhận cuộc sống không phù hợp, vợ chồng không có tiếng nói chung. Sự việc cứ lặp đi lặp lại nhiều lần khiến cho cuộc sống vợ chồng ngột ngạt, mặc dù hai bên gia đình đã cố gắng hòa giải, can thiệp nhưng hai bên vẫn không thể kiềm chế nỗi bức xúc mỗi khi cùng sống trong mội mái nhà. Năm 2021, 2022 ông T phạm tội, sau đó bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 18/2023/HS-ST ngày 30/5/2023. Từ đó đến nay vợ chồng không quan tâm, liên lạc với nhau. Nay bà H thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không đạt được mục đích, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài nên bà H đề nghị Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn ông Lê Quang T. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN TRIỆU PHONG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG TRỊ
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU PHONG, TỈNH QUẢNG TRỊ
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Đăng Khoa.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Thế Nam và bà Nguyễn Thị Diệp.
Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thị Ngọc Thúy - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong tham gia phiên tòa:
Bà Ngô Thị Liễn - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 4 năm 2025, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và
gia đình thụ lý số: 23/2025/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 02 năm 2025 về “Ly hôn,
tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2025/QĐXXST-
HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2025 giữa:
- Nguyên đơn: Bà Trương Thị Thanh H, sinh năm 1990; nơi cư tr: Thôn T,
xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị, có mặt.
- Bị đơn: Ông Lê Quang T, sinh năm 1981; nơi cư tr: Thôn T, xã T, huyện
T, tỉnh Quảng Trị, có đơn xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 02 năm 2025 của nguyên đơn bà Trương
Thị Thanh H thì nội dung vụ án như sau:
Bà Trương Thị Thanh H và ông Lê Quang T yêu nhau tự nguyện, đăng ký kết
hôn vào năm 2015, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị. Sau kết hôn,
vợ chồng sinh sống và làm việc tại thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị. Mặc dù
thời gian vợ chồng chung sống với nhau không dài nhưng thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn. Nguyên nhân là quan niệm sống và cách nhìn nhận cuộc sống không phù
hợp, vợ chồng không có tiếng nói chung. Sự việc cứ lặp đi lặp lại nhiều lần khiến
cho cuộc sống vợ chồng ngột ngạt, mặc dù hai bên gia đình đã cố gắng hòa giải, can
thiệp nhưng hai bên vẫn không thể kiềm chế nỗi bức xúc mỗi khi cùng sống trong
mội mái nhà. Năm 2021, 2022 ông T phạm tội, sau đó bị Tòa án nhân dân huyện
Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”
theo bản án số 18/2023/HS-ST ngày 30/5/2023. Từ đó đến nay vợ chồng không
quan tâm, liên lạc với nhau. Nay bà H thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân
không đạt được mục đích, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài nên bà H đề nghị
Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn ông Lê Quang T.
Bản án số: 10/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 11/4/2025
“V/v ly hôn, tranh chấp nuôi con”
V/v “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con"
giữa bà Nhàn và ông Đức.
V/v “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con"
giữa bà Nhàn và ông Đức.
V/v tranh chấp “Ly hôn“
2
Về con chung: Quá trình hôn nhân, vợ chồng có 03 con chung là cháu Lê Bảo
N, sinh ngày 07/4/2010; cháu Lê Quốc B, sinh ngày 23/4/2011 và cháu Lê Phúc A,
sinh ngày 07/01/2020. Hiện 03 cháu đang được bà H nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà
Trương Thị Thanh H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 03
cháu và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn: Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng đng theo quy định
pháp luật cho ông Lê Quang T được biết. Tuy nhiên, ông T hiện đang chấp hành án
tại Trại giam Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Do đó ông T đã làm đơn đề nghị
giải quyết vắng mặt và trình bày ý kiến của mình về vụ án. Trong đơn trình bày ông
T cho biết: ông T và bà H kết hôn với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, đăng ký
kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng
sinh sống tại nhà bố, mẹ ông T sau đó vợ chồng ông làm nhà riêng tại thôn T, xã T,
huyện T, tỉnh Quảng Trị. Qúa trình chung sống hai vợ chồng sống hạnh phúc và
sinh được 03 người con chung. Kể từ năm 2022 ông đi chấp hành án tại trại giam
Đ, thời gian đầu bà H có ra thăm gặp một lần, những năm trở lại đây bà H không có
ra thăm ông nữa. Nay bà H làm đơn ly hôn, ông vẫn còn tình cảm nên không đồng
ý ly hôn.
Về con chung: Quá trình hôn nhân, vợ chồng có 03 con chung là cháu Lê Bảo
N, sinh ngày 07/4/2010; cháu Lê Quốc B, sinh ngày 23/4/2011 và cháu Lê Phúc A,
sinh ngày 07/01/2020. Hiện 03 cháu đang được bà H nuôi dưỡng tại nhà bố mẹ đẻ
bà H. Trong thời gian các cháu sinh sống với bà H thì ông và gia đình không có điều
kiện để chu cấp các cháu ăn học mà chỉ riêng bà H nuôi dưỡng các cháu. Nếu bà H
vẫn kiên quyết ly hôn và Tòa án cũng giải quyết ly hôn thì ông đề nghị Tòa án giao
cả 03 cháu cho bà H trực tiếp chăm sóc. Do ông đang chấp hành án nên ông không
có điều kiện cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong có ý kiến
như sau:
Về thủ tục tố tụng: Về việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành
tố tụng và những người tham gia tố tụng: từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa,
những người tiến hành tố tụng và các đương sự đã chấp hành đng quy định của Bộ
luật tố Tụng dân sự.
Về đường lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét
xử: Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân gia
đình; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 207, Điều 227, Điều 228 của Bộ
luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, xử cho bà Trương Thị Thanh H
được ly hôn với ông Lê Quang T. Về con chung: Giao cho bà Trương Thị Thanh H
trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Bảo N, sinh ngày 07/4/2010; cháu Lê Quốc B, sinh
ngày 23/4/2011 và cháu Lê Phúc A, sinh ngày 07/01/2020. Bà H không yêu cầu ông
Lê Quang T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Ông Lê Quang T có quyền,
nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về tài sản chung, nợ chung: các
3
đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về án phí:
Bà Trương Thị Thanh H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định
của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ kết quả công bố tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 13 tháng 02 năm 2025, Tòa án thụ lý vụ án tranh
chấp về ly hôn giữa nguyên đơn bà Trương Thị Thanh H và bị đơn ông Lê Quang
T theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án tống đạt các văn
bản về vụ án cho ông T được biết. Tuy nhiên hiện ông T đang chấp hành án tại Trại
giam Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình theo bản án số 18/2023/HS-ST ngày
30/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Vì vậy ông T đã
làm đơn xin vắng mặt các buổi làm việc và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt ông. Tại
phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Trương Thị Thanh H có mặt, bị đơn ông Lê
Quang T vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến
hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thị Thanh H và ông Lê Quang T yêu
nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T,
tỉnh Quảng Trị theo đng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi kết hôn,
hai vợ chồng sinh sống với nhau tại nhà bố, mẹ chồng, sau đó vợ chồng xây nhà
riêng ở thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Trị. Theo đơn trình bày của bà H thì
nguyên nhân ly hôn là vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, do quan điểm
sống của hai người khác nhau nên dẫn đến mâu thuẫn và thường xuyên cải vã nhau.
Đến năm 2021, 2022 ông T phạm tội, sau đó bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh,
tỉnh Quảng Trị xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số
18/2023/HS-ST ngày 30/5/2023. Từ đó bà H mang các con về sinh sống cùng bố
mẹ đẻ, một mình nuôi dưỡng các cháu. Vì vậy, bà H muốn ly hôn ông T để mỗi
người tự lo cuộc sống riêng cho mình. Tại bản trình bày ý kiến ngày 07/3/2025 của
ông T, ông T cho biết mình vẫn còn tình cảm với bà H và không đồng ý ly hôn theo
yêu cầu của bà H, tuy nhiên nếu bà H vẫn cương quyết ly hôn thì ông đề nghị Tòa
án giao các cháu cho bà H nuôi dưỡng. Ngày 25/3/2025, Tòa án tiến hành xác minh
tình trạng hôn nhân giữa ông T và bà H tại UBND xã T. Qua xác minh tại UBND
xã T được biết: Ông T, bà H đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T vào ngày
30/12/2015. Sau khi ông T chấp hành án thì bà H đã mang theo các cháu về nhà bố
mẹ đẻ ở thành phố Đ sinh sống. Quá trình chung sống với nhau, giữa ông T và bà
H cũng phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng hay gây gỗ, thậm chí đánh đập nhau.
Qua xem xét đơn ly hôn của bà H, ý kiến trình bày của ông T và kết quả xác
minh tình trạng hôn nhân giữa ông T và bà H tại UBND xã T, Hội đồng xét xử thấy:
Quá trình sống với nhau, giữa bà H và ông T phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là
do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, nhiều lần gây gỗ, đánh đập nhau. Hiện tại
4
ông T đang chấp hành bản án 07 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Trại
giam Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình theo bản án số 18/2023/HS-ST ngày
30/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Thời gian chấp
hành án của ông T còn dài, tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông T không tồn tại
trên thực tế. Mặc dù Tòa án đã tiến hành hòa giải tuy nhiên bà H vẫn cương quyết
ly hôn bởi vì mục đích hôn nhân của bà và ông T không đạt được. Tại phiên tòa, bà
H vẫn có nguyện vọng tiếp tục ly hôn ông T. để thuận tiện trong việc xử lý các vấn
đề về nhân thân của bà H. Hội đồng xét xử nhận thấy, trong thời gian ông T chưa đi
chấp hành án, hôn nhân giữa ông T và bà H đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, hiện tại và
trong nhiều năm tới hôn nhân giữa ông T và bà H thực tế không tồn tại, bà H thể
hiện sự cương quyết muốn ly hôn với ông T. Do đó cần áp dụng khoản 1 Điều 56
Luật Hôn nhân và gia đình xử cho bà H được ly hôn ông T.
[3] Về con chung: Quá trình hôn nhân, vợ chồng có 03 con chung là cháu Lê
Bảo N, sinh ngày 07/4/2010; cháu Lê Quốc B, sinh ngày 23/4/2011 và cháu Lê Phúc
A, sinh ngày 07/01/2020. Hiện 03 cháu đang được bà H nuôi dưỡng tại nhà bố mẹ
đẻ bà H ở thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Quá trình giải quyết vụ án, ngày 14/3/2025
Tòa án đã lấy ý kiến cháu Lê Bảo N, sinh ngày 07/4/2010; cháu Lê Quốc B, sinh
ngày 23/4/2011 về việc ly hôn giữa ông T và bà H. Trong biên bản các cháu đều có
nguyện vọng được tiếp tục sống cùng với bà H. Nguyện vọng của bà H là được tiếp
tục nuôi dưỡng 03 cháu và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Trong
bản ý kiến ngày 07/3/2025 ông T cũng có đề nghị nếu bà H cương quyết ly hôn ông
xin giao 03 cháu cho bà H nuôi dưỡng, hiện ông đang chấp hành án nên không có
điều kiện chu cấp cho các cháu. Qua ý kiến, nguyện vọng của các đương sự, nguyện
vọng của các cháu và tình hình thực tế, Hội đồng xét xử nhận thấy, cần giao cả 03
cháu là cháu cháu Lê Bảo N, sinh ngày 07/4/2010; cháu Lê Quốc B, sinh ngày
23/4/2011 và cháu Lê Phúc A, sinh ngày 07/01/2020 cho bà Trương Thị Thanh H
tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện thực tế và quy định tại các
Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyến nên Hội
đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Bà Trương Thị Thanh H nộp đơn ly hôn nên phải chịu án phí
ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a
khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản
1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng
dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí, tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Trương Thị Thanh H được ly hôn ông Lê
Quang T.
5
2. Về con chung: Giao cháu Lê Bảo N, sinh ngày 07/4/2010; cháu Lê Quốc
B, sinh ngày 23/4/2011 và cháu Lê Phúc A, sinh ngày 07/01/2020 cho bà Trương
Thị Thanh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà Trương Thị Thanh H không yêu
cầu ông Lê Quang T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở
người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc
gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì
người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của
người đó.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí: Bà Trương Thị Thanh H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn
sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên
lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000309 ngày 12/02/2025 của Chi cục thi hành án dân
sự huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (bà H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm).
Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày
niêm yết bản án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Quảng Trị; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Triệu Phong;
- CCTHADS huyện Triệu Phong;
- UBND xã Triệu Ái;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Phan Đăng Khoa
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 02/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm