Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT ngày 07/05/2025 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 09/2025/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT ngày 07/05/2025 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Phước
Số hiệu: 09/2025/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/05/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Sửa một phần Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số: 09/2025/HNGĐ-PT
Ngày: 07 - 5 - 2025
V/v tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Bùi Văn Bình
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Tiến Hiệp
Ông Lê Viết Hòa
- Thư phiên tòa: Ông Mai Chí Thọ - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Phước.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa:
Bà Đỗ Thị Hoa - Kiểm sát viên.
Trong ngày 07 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Phước mphiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số
02/2025/TLPT-HNGĐ ngày 09 tháng 01 năm 2025 về việc “Tranh chấp chia tài
sản sau khi ly hôn”. Do Bản án hôn nhân gia đình thẩm s63/2024/HNGĐ-ST
ngày 29 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước bị
kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2025/QĐ-PT ngày 31 tháng 3
năm 2025 Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2025/QĐPT-HNngày 09 tháng
4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1975, có mặt
Trú tại: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước.
- Bị đơn: Bà Đinh Thanh D, sinh năm 1976, có mặt
Trú tại: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Ý N, sinh năm 2002, vắng mặt
2. Anh Nguyễn Minh L, sinh năm 2000, vắng mặt
Cùng trú tại: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước.
3. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1950, vắng mặt
4. Bà Nguyễn Thị L1 sinh năm 1953, vắng mặt
2
Cùng trú tại: Khu phố P, phường T, TP Đ, tỉnh Bình Phước.
Nơi ở hiện nay: Ấp T, xã T, H. Đ, tỉnh Bình Phước.
5. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc T1 - Chức vụ: Giám đốc
Chi nhánh VPĐK đất đai huyện Đ, có đơn xin vắng mặt.
- Người làm chứng: Ông Trần Hữu C1, sinh năm 1980 bà Nguyễn Thị
Ngọc H, sinh năm 1983; cùng địa chỉ: số nhà C, ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Bình
Phước, vắng mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Đinh Thanh D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn C trình bày:
Ông C Đinh Thanh D trước đây vợ chồng nhưng đã ly hôn năm
2020 theo Quyết định ng nhận thuận tình ly hôn số 198/2020/QĐST - HNGĐ
ngày 08/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ. Khi ly hôn các bên không yêu cầu
giải quyết phân chia tài sản chung mà tự thỏa thuận. Tuy nhiên, sau khi ly hôn do
các bên không tự thỏa thuận được việc phân chia tài sản chung nên dẫn đến tranh
chấp, nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc phân chia tài sản chung
như sau:
Về tài sản chung: Theo ông C, trong thời kỳ hôn nhân ông C D cùng
tạo dựng được các quyền sử dụng đất gồm:
+ Quyền sử dụng diện tích đất 801,8m
2
tại ấp C, xã T, huyện Đ, đất đã được
cấp giấy chứng nhận số sổ phát hành 704711 và Giấy chứng nhận số phát
hành 704712, svào sổ cấp GCN: CS 09652/TH ngày 08/4/2022 do Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Văn T vợ Nguyễn Thị
L1 cùng sử dụng với bà Đinh Thanh D mỗi người được nhận 50% giá trị quyền sử
dụng đất.
Nguồn gốc của quyền sử dụng đất này do ông C bà D nhận sang nhượng
từ ông Trần Hữu C1 vào năm 2013 khi hai người còn chung sống vợ chồng, tại
thời điểm nhận chuyển nhượng do đất chưa được cấp giấy chứng nhận nên các bên
chỉ viết giấy tay, giấy tay do D cất giữ; số tiền chuyển nhượng 120.000.000
đồng, tiền mua đất tiền của ông bà D, ông D cùng trả tiền cho ông C1.
Đến năm 2022 thì ông được biết bà D đã làm giấy chứng nhận đất.
Trên đất 01 căn nhà cấp 4 do hai vợ chồng xây dựng trong quá trình
chung sống.
+ Thửa đất thứ 02: Thửa số 288 tờ bản đồ số 23 tại ấp T, xã T, huyện Đ diện
tích 16402,4m
2
đất đã được cấp giấy chứng nhận số CU 826207, trên đất trồng
điều. Phần đất này trước đây vào năm 2020 ông bà D, anh L, chN đã thống
nhất tặng cho lại cho ông chN được quản sử dụng, hợp đồng đã được n
phòng C2 công chứng. Tuy nhiên, sau đó D không giao giấy chứng nhận cho
ông để ông đi làm thủ tục đăng ký sang tên đất cho ông và chị N.
3
Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết nội dung sau:
- Yêu cầu Tòa án ng nhận tài sản chung quyền sử dụng diện tích đất
801,8m
2
tại ấp C, xã T, huyện Đ, đất đã được cấp Giấy chứng nhận số sổ phát hành
DĐ 704712 và Giấy chứng nhận số phát hành DĐ 704712, số vào sổ cấp GCN: CS
09652/TH ngày 08/4/2022 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông
Nguyễn Văn T và vợ bà Nguyễn Thị L1 cùng sử dụng với Đinh Thanh D
yêu cầu phân chia tài sản chung, ông C yêu cầu được nhận ½ giá trị tài sản quyền
sử dụng đất và tài sản trên đất.
- Yêu cầu D trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng của diện tích đất thửa
số 288 tờ bản đồ số 23 tại ấp T, T, huyện Đ diện tích 16402,4m
2
đất đã được
cấp giấy chứng nhận số CU 826207 cho Nguyễn Văn C Đinh Thanh D để làm
thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
- Yêu cầu thu hồi hoặc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất
801,8m
2
tại ấp C, T, huyện Đ số sổ phát hành 704712, số vào sổ cấp GCN:
CS 09652/TH ngày 08/4/2022 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho ông
Nguyễn Văn T và vợ bà Nguyễn Thị L1 cùng sử dụng với Đinh Thanh D
Giấy chứng nhận ssổ phát hành 704711, svào sổ cấp GCN: CS 09652/Tân
Hưng ngày 08/4/2022 được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp cho bà Đinh
Thanh D cùng sử dụng với ông Nguyễn Văn T vợ Nguyễn Thị L1. Hủy
hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Trần Hữu C1 với ông Nguyễn Văn T vợ
Nguyễn Thị L1 ng Đinh Thanh D do diện tích đất tài sản chung của
ông và bà D.
Ngoài ra, ông C không có yêu cầu, ý kiến trình bày nào khác.
Bị đơn bà Đinh Thanh D trình bày:
chỉ đồng ý tài sản chung của hai người trong quá trình chung sống gồm:
Thửa số 288 tờ bản đồ số 23 tại ấp T, T, huyện Đ diện tích 16402,4m
2
đất đã
được cấp giấy chứng nhận số CU 826207, trên đất trồng điều. Phần đất này
trước đây vào năm 2020 gia đình và ông C, anh L, chị N đã thống nhất tặng cho
ông C chị N được quản sử dụng, hợp đồng đã được Văn phòng C2 công
chứng. Việc tặng cho hoàn tòan tự nguyện, không bị ép buộc thời điểm y
ông bà muốn giao cho ông C chị N quản lý sử dụng thửa đất này. Tuy nhiên, do
ông C không thực hiện theo đúng thỏa thuận ông C một mình thu điều lấy
tiền tiêu mà không cho chị N, chị N không được hưởng gì. Vì vậy nay không
đồng ý thực hiện thỏa thuận hợp đồng tặng cho nữa, không đồng ý làm thủ tục
sang tên cho ông C. sẽ lấy lại để sau này làm lại thủ tục tặng cho, vì ông C đã
thu điều suốt 06 năm mà chị N không được hưởng gì. Tuy nhiên, bà không yêu cầu
Tòa án giải quyết đối với hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất mà sau này tự các
bên sẽ làm lại thủ tục tặng cho, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Ngoài diện tích đất này ra thì hiện ông C không còn tài sản chung nào
khác.
Đối với quyền sử dụng diện tích đất 801,8m
2
tại ấp C, T, huyện Đ ssổ
phát hành DĐ 704712, số vào sổ cấp GCN: CS 09652/TH ngày 08/4/2022 được Sở
4
Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận cho Đinh Thanh D vợ
chồng ông Nguyễn Văn T và vợ là bà Nguyễn Thị L1 đồng sử dụng là tài sản do
vợ chồng ông T, L1 góp tiền mua của ông C1 với số tiền 200.000.000 đồng,
bà và vợ chồng ông T mỗi bên góp ½ vốn. Ông Nguyễn Văn T và vợ là bà Nguyễn
Thị L1 được hưởng 50% tài sản, được quyền hưởng 50% giá trị tài sản là tài
sản riêng của ông C không đóng góp công sức trong việc tạo dựng tài
sản này, chỉ một mình kiếm tiền, vay mượn tiền của vợ chồng ông T để mua
đất.
Trên đất 01 căn nhà cấp 4 xây dựng từ năm 2013, nhưng căn nhà do một
mình bà tích góp tiền để xây dựng, ông C cũng không có công sức đóng góp gì. Từ
năm 2012, ông C đã sống ly thân không đụng chạm kinh tế, tài chính của
nhau, một mình bà tích góp, vay mượn tiền để mua vật liệu xây dựng.
vậy, đối với đất tài sản trên diện tích đất này không đồng ý tài
sản chung nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông C.
Ngoài ra, bà D không có ý kiến, yêu cầu nào khác.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Minh L trình bày:
Anh L con ruột của ông C D. Về việc phân chia tài sản thì anh đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định và không có yêu cầu, ý kiến gì.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Ý N trình bày:
Chị N là con ruột của ông C và bà D. Đối với việc giải quyết về phân chia tài
sản là diện tích đất 801,8m
2
tại ấp C, T, huyện Đ yêu cầu của nguyên đơn về
việc buộc bà D trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng của diện tích đất thửa số 288
tờ bản đồ số 23 tại ấp T, xã T, huyện Đ diện tích 16402,4m
2
thì chị N không ý
kiến hay yêu cầu gì.
Chị N yêu cầu độc lập đề nghị ông C trả lại tiền thu điều của những năm
ông C đã thu hoạch từ 2020 đến 2023 với số tiền 150.000.00 đồng, chị N yêu cầu
được thu hoạch điều 05 mùa điều tiếp theo kể từ mùa điều m 2024 của thửa số
288 tbản đồ số 23 diện tích 16.402,4 tọa lạc tại ấp T, T, huyện Đ, tỉnh Bình
Phước, do mùa điều năm 2024 chị N đã thu nên chị N yêu cầu được thu hoạch mùa
điều tnăm 2025 đến mùa điều năm 2028, do diện tích đất này ông C D đã
ký hợp đồng tặng cho ông C và chị N. Ngoài ra chị N không có yêu cầu nào khác.
Do bận công việc nên chị đề nghị được vắng mặt tại các phiên họp, phiên
đối chất và phiên tòa xét xử sơ thẩm.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T Nguyễn
Thị L1 thống nhất trình bày:
Ông T và bà L1 là vợ chồng, giữa vợ chồng ông bà với Đinh Thanh D
mối quan hệ quen biết thân thiết với nhau nhưng không có quan hệ bà con họ hàng
gì, bà D thường gọi ông bà là ba mẹ.
Vào năm 2013 do không đtiền để nhận chuyển nhượng toàn bộ quyền sử
dụng đất có diện tích 801,8m
2
toạ lạc tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước nên
5
Đinh Thanh D rủ vchồng ông chung tiền để đứng tên chung đối với
quyền sử dụng đất này. Do đó v chồng ông đã đưa cho Duyên số tiền
100.000.000 đồng (tổng giá trị chuyển nhượng 200.000.000 đồng) để mua của
ông Trần Hữu C1 thửa đất nói trên. Số tiền mua đất do D vay của ông một
nửa nhưng đến nay chưa trả cho ông bà. Việc hợp đồng chuyển nhượng
chuyển tiền cho ông C1 chỉ D cùng ông thực hiện, ông Nguyễn Văn C
không liên quan đến thửa đất này, đến ngày ngày 08/4/2022 đất đã được cấp
GCNQSDĐ số (CS)09652/TH cấp cho bà Đinh Thanh D cùng sử dụng đất với ông
Nguyễn Văn T Nguyễn Thị L1. Sau đó D xin vợ chồng ông xây
dựng căn nhà trên đất, sau này có tiền thì bà D sẽ trả ½ giá trị đất để ông bà chuyển
nhượng cho bà D thì ông bà đồng ý. Ông bà xác định toàn bộ tài sản trên đất không
phải là của ông bà.
Nay ông C yêu cầu chia đôi diện tích 801,8m
2
toạ lạc tại ấp C, T, huyện
Đ, tỉnh Bình Phước tài sản trên đất căn nhà cấp 4, thửa đất đã được Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Đinh
Thanh D cùng sử dụng đất với ông Nguyễn n T vợ Nguyễn Thị L1 ngày
08/4/2022, thì ông không đồng ý, do ½ giá trị quyền sử dụng đất của vợ
chồng ông bà. Đối với tài sản trên đất không liên quan đến ông bà nên ông
không có ý kiến hay yêu cầu gì.
Đối với vụ án này ông không yêu cầu độc lập đối với vụ án, không
ý kiến hay yêu cầu thêm, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp
luật, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông bà. Do tuổi đã cao, đi lại khó khăn
nên ông đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình Toà án giải quyết vụ án,
mọi ý kiến ông bà đã trình bày ở trên và không bổ sung gì thêm.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh
B, người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Hữu T2, chức vụ: giám đốc Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ trình bày:
Về trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất 801,8m
2
đất trồng cây lâu năm thuộc thửa số 68 tờ bản đồ s11 ấp C, T, huyện Đ, tỉnh
Bình Phước, số vào sổ cấp GCN: CS 09652/TH ngày 08/4/2022 được Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Văn T vợ Nguyễn Thị
L1 cùng sử dụng với Đinh Thanh D đảm bảo đúng đầy đủ về thành phần
hồ sơ, trình tthủ tục theo quy định tại số “46. Đăng biến động quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu i sản gắn liền với đất trong các trường hợp chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu tài sản gắn liền với đất, chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản
gắn liền với đất của vợ hoặc chồng thành của chung vợ chồng” số TTHC:
2.000889 ban hành kèm theo Quyết định 1990/QĐ-UBND ngày 03/8/2021 của
UBND tỉnh B và thực hiện đúng các quy định cũng như các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật Đất đai năm 2013.
Tại thời điểm giải quyết hồ thì thửa đất không tranh chấp không
thuộc các trường hợp không tiếp nhận (từ chối) và giải quyết theo quy định.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy Giấy chứng nhận số
6
sổ phát hành 704712 Giấy chứng nhận số sổ phát hành 704711, số vào
sổ cấp GCN: CS 09652/TH ngày 08/4/2022 được Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Văn T và vợ là bà Nguyễn Thị L1 cùng sử dụng với bà
Đinh Thanh D. Theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 11420 quyển
số 01/2022/TP/CC - SCC/HĐGD do V công chứng ngày 11/3/2022, khi đăng
cấp giấy chứng nhận QSD đất do nhận chuyển nhượng Đinh Thanh D nộp
kèm theo giấy xác nhận tình trạng hôn nhân số 26/UBND-XNTTHN ngày
28/3/2022 do UBND T, huyện Đ xác nhận thì tại thời điểm 8/9/2020 đến
thời điểm nhận chuyển nhượng và đăng ký giấy chứng nhận QSD đất thì bà D chưa
kết hôn với ai. Theo đó, việc đăng ký và cấp giấy chứng nhn QSD đất cho cá nhân
D đảm bảo thực hiện đúng theo khoản 4 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013
khoản 1 Điều 12 Nghị định 126/NĐ-CP. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
đề nghị thu hồi hoặc hủy giấy chứng nhận đã cấp cho ông Nguyễn Văn T và vợ
Nguyễn Thị L1 cùng sử dụng với Đinh Thanh D không đủ sở. Đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định, Chi nhánh VPĐ đất đai Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B không có ý kiến gì về việc giải quyết vụ án.
Người làm chứng ông Trần Hữu C1 trình bày:
Diện tích 801,8m
2
địa chỉ tại ấp C, T, huyện Đ trước đây ông quản sử
dụng, năm 2013 ông bán cho vợ chồng D, ông C giá tiền là 120.000.000 đồng.
Khi chuyển nhượng thì ông chưa được cấp giấy chứng nhận đất nên hai bên chỉ
viết giấy tay, giấy tay do ông viết giao cho D giữ, do đã lâu nên ông không
nhớ ai ký tên. Stiền chuyển nhượng thì vợ chồng D đưa tiền cho ông hai
lần, 01 lần hai vợ chồng giao cho ông khoảng mấy chục triệu, lần 02 giao khoảng
mấy chục triệu do D giao tiền. Khi mua bán thì ông C cũng tham gia giao
dịch, hai người cùng ra gặp ông để trao đổi việc mua bán và giao tiền cho ông. Đến
năm 2022 ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, D nhờ ông ký hợp
đồng chuyển nhượng đất để hợp thức hóa, nhưng bà D nói bà D và ông C đã ly hôn
rồi, do D nói ông T L1 đóng góp 50% cổ phần nên nhờ ông hợp
đồng chuyển nhượng cho ông T, L1 nên ông mới hợp đồng chuyển nhượng,
còn việc ông T L1 đóng góp 50% hay không thì ông không biết, việc
này là do D nhờ để hợp thức hóa để làm giấy chứng nhận đất. Khi hợp đồng
chuyển nhượng thì các bên không giao nhận thêm bất kkhoản tiền nào hết, giữa
ông với ông T L1 cũng không giao nhận số tiền mua bán đất cả. n việc
tiền bạc giữa D với vợ chồng ông T thì ông hoàn toàn không được biết.
Ngoài số tiền 120.000.000 đồng ông đã nhận của vợ chồng ông C, D vào năm
2013 thì ông không nhận thêm bất cứ khoản tiền nào tD, ông T L1 khi
ký hợp đồng chuyển nhượng để chuyển nhượng thửa đất.
Tại Bản án hôn nhân gia đình thẩm số 63/2024/HNGĐ-ST ngày 29 tháng
8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 2 Điều 157, 165; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 27, 33, 38, 59, 62 Điều 107, 110, 116 Luật Hôn nhân Gia đình
năm 2014;
7
Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, b khoản 5 khoản 6 Điều 27
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn C v
việc chia tài sản chung sau ly hôn.
- Công nhận 50% quyền sử dụng diện tích đất 801,8 m
2
tại ấp C, xã T, huyện
Đ, tỉnh Bình Phước toàn bộ tài sản trên đất tài sản chung của ông C D
trong thời kỳ hôn nhân. Tổng giá trị tài sản chung của ông C và bà D là
1.078.101.600 đồng.
Chia cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn C được hưởng 40% giá trị tài sản
chung, bị đơn bà Đinh Thanh D được hưởng 60% giá trị tài sản chung. Cụ thể:
+ Giao cho bà D được quyền quản lý, sử dụng 50% diện tích đất 801,8 m
2
tại
ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước toàn bộ tài sản trên đất gồm 01 căn nhà
cấp 4, 01 bể nước, 01 nhà kho. Đối với 50% quyền sử dụng đất diện tích 801,8 m
2
của ông T L1 do đương sự không yêu cầu xem xét nên HĐXX không phân
chia mà tạm giao cho D quản sử dụng. Giá trị tài sản D được nhận
646.860.960 đồng.
+ Do D được nhận quản đất toàn bộ tài sản trên đất nên bà D phải
có trách nhiệm hoàn lại cho ông C 40% giá trị tài sản chung mà ông C được hưởng
tương ứng với số tiền 431.240.640 đồng (Bốn trăm ba mươi mốt triệu hai trăm bốn
mươi nghìn sáu trăm bốn mươi đồng).
- Buộc bị đơn Đinh Thanh D phải trách nhiệm trả lại cho nguyên đơn
ông Nguyễn Văn C chị Nguyễn Thị Ý N Giấy chứng nhận quyền sử dụng của
diện tích đất thửa số 288 tờ bản đồ số 23 tại ấp T, T, huyện Đ diện tích
16402,4m
2
đã được cấp giấy chứng nhận số CU 826207 cho Nguyễn Văn C
Đinh Thanh D để làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định pháp luật.
Trường hợp D không giao trả bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
nêu trên thì ông Nguyễn Văn C được quyền và có trách nhiệm liên hệ đến quan
Nhà nước thẩm quyền đthực hiện việc đăng quyền sử dụng đất, cấp đổi
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
2. Bác yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C đối với yêu cầu thu hồi,
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất 801,8m
2
tại ấp C, xã T, huyện Đ
số sổ phát nh 704712 Giấy chứng nhận số sổ phát hành 704711, số
vào sổ cấp GCN: CS 09652/TH ngày 08/4/2022 được Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Văn T và vợ là bà Nguyễn Thị L1 cùng sử dụng
với bà Đinh Thanh D.
3. Bác yêu cầu độc lập của chị Nguyễn Thị Ý N về việc buộc nguyên đơn
ông Nguyễn Văn C phải trả lại số tiền 150.000.000 đồng từ việc thu điều của
8
những mùa vụ ông C đã thu.
Ngoài ra Bản án thẩm n quyết định vchi phí tố tụng, án phí, quyền
kháng cáo và các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án sơ thẩm bị kháng cáo như sau:
Ngày 09 tháng 9 năm 2024, bị đơn bà Đinh Thanh D kháng cáo yêu cầu Toà
án cấp phúc thẩm sửa Bản án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C; hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất đã ký kết giữa bà D, ông C, anh L chị N đối với diện tích 1.6402,4m2 tại ấp
T, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước.
Tại phiên toà phúc thẩm:
- Nguyên đơn ông ông Nguyễn Văn C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị
đơn Đinh Thanh D vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không
thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân n tỉnh Bình Phước tại phiên
tòa:
- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, Hội đồng xét xử,
Thư Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Những
người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền nghĩa vụ của mình theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố
tụng dân sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Đinh Thanh D; sửa
Bản án thẩm theo hướng công nhận 50% quyền sdụng diện tích đất 801,8m
2
tại ấp C, T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước toàn bộ tài sản trên đất tài sản
chung của ông C và bà D trong thời kỳ hôn nhân; ghi nhận sự tự nguyện của ông C
chỉ yêu cầu bà D trách nhiệm hoàn trả lại cho ông C giá trị tài sản chung
300.000.000 đồng; đề nghị Hội đồng xét xử sửa lại cách tuyên án đối với phần diện
tích đất D được hưởng nằm trong phần diện tích đất được sở hữu chung với
L1, ông T cho phù hợp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn Đinh Thanh D làm trong thời
hạn luật định, nội dung và hình thức phù hợp với quy định pháp luật, nên được
xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu kháng cáo của bà D đối với diện tích đất 801,8 m
2
tại ấp C,
xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước, thấy rằng:
Diện tích đất này đã được Sở T cấp giấy chứng nhận số sổ phát hành
704712 Giấy chứng nhận số sổ phát hành 704711, số vào sổ cấp GCN: CS
09652/Tân Hưng ngày 08/4/2022 cấp cho ông Nguyễn Văn T vợ Nguyễn
9
Thị L1 cùng sử dụng với bà Đinh Thanh D.
D cho rằng diện tích đất này tài sản riêng của cùng góp vốn nhận
chuyển nhượng chung với vchồng ông Nguyễn Văn T vợ Nguyễn Thị L1
mỗi bên 50%, nhận chuyển nhượng của ông C1 năm 2013, không sự đóng góp
công sức của ông C, số tiền bà D góp nhận chuyển nhượng là do D vay của ông
T, bà L1. Tài sản trên đất cũng do bà D tạo dựng, ông C không có đóng góp gì nên
bà không đồng ý chia tài sản này cho ông C.
Tuy nhiên, ông C cho rằng diện tích đất này tuy đã được cấp giấy chứng
nhận cho ông Nguyễn Văn T và vợ là bà Nguyễn Thị L1 cùng sử dụng với bà Đinh
Thanh D nhưng là tài sản chung của ông C D trong thời kỳ hôn nhân vì diện
tích đất này nguồn gốc do ông D nhận chuyển nhượng của ông Trần Hữu
C1 vào năm 2013 khi ông C D còn vợ chồng hợp pháp. Khi nhận chuyển
nhượng, do đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên các bên chỉ
làm giấy viết tay, giá chuyển nhượng thỏa thuận là 120.000.000 đồng.
Cả ông C D đều xác định diện tích đất này nguồn gốc do nhận
chuyển nhượng từ ông Trần Hữu C1 vào năm 2013 và làm giấy chuyển nhượng
viết tay nhưng các bên không cung cấp được giấy nhận chuyển nhượng viết tay
này. Theo D thì ông C1 chuyển nhượng cho vợ chồng ông T, L1 với
giá 200 triệu đồng, trong khi đó ông C cho rằng ông C1 chuyển nhượng cho ông C
D với giá 120 triệu đồng. Xét thấy lời khai của ông C phợp với lời khai
của ông Trần Hữu C1 tại biên bản lấy lời khai ngày 26/7/2024 (bút lục số 224),
ông C1 xác định diện tích đất này ông C1 chuyển nhượng cho vợ chồng ông C
bà D từ năm 2013, ông C1 trực tiếp nhận số tiền 120 triệu đồng chuyển nhượng đất
từ ông C, ông không biết L1 ông T ai, ông cũng không nhận được số tiền
200 triệu đồng tD, ông T L1 như D trình bày. Năm 2022, khi đất
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì D nhờ ông C1 làm hợp
đồng chuyển nhượng D ông C đã ly hôn nên ông mới vào hợp đồng
chuyển nhượng ngày 11/3/2022 cho D, ông T L1 nhưng ông không nhận
thêm khoản tiền nào ngoài số tiền 120.000.000 đồng vchồng ông C D
đã trả cho ông từ năm 2013. Mặt khác, bà D cho rằng ông C1 chuyển nhượng
quyền sdụng đất cho vợ chồng ông T với g200 triệu đồng nhưng trong
hợp đồng chuyển nhượng ngày 11/3/2022 lại thể hiện gchuyển nhượng 100
triệu đồng. D ng không cung cấp được chứng cứ để chứng minh nguồn gốc
số tiền nhận chuyển nhượng đất của ông C1 tài sản riêng của D. Đồng thời,
sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông C1, ông C D đã xây
dựng nhà ở kiên cố trên đất để sinh sống cho đến khi ly hôn.
Như vậy, có sở xác định diện tích đất này do nhận chuyển nhượng từ ông
C1 trong thời kquan hệ hôn nhân giữa ông C D n tồn tại. Theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì D được nhận 50% còn ông T bà L1 được
nhận 50% giá trị quyền sử dụng đất. Vì vậy, cần xác định 50% diện tích đất mà
D được nhận toàn bộ tài sản trên đất tài sản chung của ông C D trong
thời kỳ hôn nhân.
Theo biên bản thẩm định biên bản định giá ngày 26/7/2024 thì diện tích
10
đất 801,8m
2
giá trị 1.215.240.000 đồng nên ½ gtrị quyền sử dụng đất được
công nhận tài sản chung của ông C D trong thời kỳ hôn nhân tương ứng
với 607.620.000 đồng; toàn bộ tài sản trên đất gồm 01 căn ncấp 4, 01 bể nước,
01 nhà kho tài sản do ông C và bà D tạo dựng có giá trị 470.481.600 đồng. Như
vậy, tổng giá trị tài sản chung của ông C và bà D là 1.078.101.600 đồng.
Xét công sức đóng góp đối với khối tài sản chung thấy rằng, khi còn chung
sống với nhau thì ông C làm nghề tự do, D đi làm thuê. Ông C bị tật tay nên
bị hạn chế khả năng lao động, bà D người chủ yếu chăm lo cho kinh tế gia đình,
mọi chi phí, sinh hoạt D người quyết định chi tiêu. Do đó xét về công sức
đóng góp đối với khối tài sản chung trên thì D công sức đóng góp nhiều hơn
so với ông C, việc Tòa án cấp thẩm chia cho ông C được hưởng 40% giá trị tài
sản chung, chia cho D được hưởng 60% gtrị tài sản chung chia hiện vật
cho D quản lý, sử dụng, bà D có trách nhiệm hoàn trả cho ông C 40% giá trị tài
sản chung tương ng số tiền 431.240.640 đồng n cứ phù hợp quy định
pháp luật.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, ông C chỉ yêu cầu D trách nhiệm
hoàn trả lại cho ông stiền 300.000.000 đồng, thấp hơn giá trị i sản ông C
được hưởng theo Bản án thẩm. Xét thấy, đây thiện chí của ông C nên Hội
đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của ông C cần tuyên buộc bà D trách
nhiệm trả lại cho ông C số tiền 300.000.000 đồng phù hợp. Do đó, cần sửa một
phần Bản án sơ thẩm về phần này.
[2.2] Xét yêu cầu kháng cáo của D về việc không đồng ý giao trả bản
chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất đã ký kết giữa D, ông C, anh L và chị N đối với diện tích
16.402,4m
2
tại ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước:
Diện tích đất 16.402,4m
2
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mang tên hộ ông C bà D ngày 28/02/2020. Ngày 21/5/2020, hộ gia đình ông C,
D đã làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất với nội dung tặng cho ông
Nguyễn Văn C Nguyễn Thị Ý N phần diện tích đất này. Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất được công chứng theo quy định của pháp luật. Khi lập hợp đồng
các bên hoàn toàn tự nguyện các đương sự đều thừa nhận nên đây tình tiết
không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, sau khi m hợp đồng tặng cho thì D không đưa giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông C đi làm thủ tục sang tên. D cho rằng do ông
C một mình khai thác hoa lợi trên đất từ những cây điều nhưng không chia 50%
cho con gái là Nguyễn Thị Ý N nên D không đưa giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Tại phiên tòa ông C thừa nhận thu hoạch điều một mình ông hưởng toàn
bộ, tuy nhiên ông thỏa thuận ông sẽ thu điều mấy năm đầu sau đó chị Ý sẽ
thu điều mấy năm sau, ai thu thì người đó được hưởng. Điều này cũng phù hợp với
nguyện vọng của chị Ý, việc giao giấy chứng nhận để ông C làm lại giấy chứng
nhận mang tên ông C và chị Ý là thực hiện đúng theo hợp đồng. Lý do bà D không
đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông C không có căn cứ.
Hơn nữa, quá trình giải quyết vụ án, n cứ vào tài liệu chứng cứ thu thập
11
được lời trình bày của các bên đương sự tông C D tạo dựng được 3
quyền sử dụng đất gồm: diện tích đất 801,8m
2
; diện tích đất thửa s288 tờ bản đồ
số 23 tại ấp T, T, huyện Đ diện tích 16402,4m
2
diện tích 25.926,5m
2
thửa số
306 tờ bản đồ số 23 tại ấp T, T, huyện Đ đã được cấp giấy chứng nhận cho ông
C và D. Trong đó, diện tích 16402,4m
2
hộ gia đình D đã làm hợp đồng tặng
cho ông C và chị N; diện tích 25.926,5m
2
đã làm hợp đồng tặng cho bà D và anh L.
Đối với diện tích 25.926,5m
2
D đã làm xong thủ tục sang tên đã chuyển
nhượng cho người khác.
Như vậy, diện tích 16.402,4m
2
đã được hgia đình bà D ông C, anh L,
chị N thống nhất tặng cho ông C chị N quản lý, sử dụng. vậy, Tòa án cấp
thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn bà Đinh Thanh D trả lại bản
chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này cho ông C, ch
N để thực hiện thủ tục sang tên theo quy định pháp luật là có căn cứ. Tại phiên tòa
phúc thẩm, D ng đồng ý giao trả bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông C và chị N để làm thủ tục sang tên theo quy định pháp luật nên cần giữ
nguyên bản án sơ thẩm về phần này.
Trường hợp D không giao trả bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
của thửa đất 16.402,4m
2
tại ấp T, T, huyện Đ thì ông Nguyễn Văn C, chị
Nguyễn Thị Ý N được quyền trách nhiệm liên hệ đến quan Nhà nước
thẩm quyền đthực hiện việc đăng quyền sử dụng đất, cấp đổi giấy chứng nhận
theo quy định pháp luật.
Đối với yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã ký kết giữa bà
D, ông C, anh L chị N đối với diện tích 16.402,4m
2
: Trong suốt quá trình giải
quyết vụ án tại cấp thẩm, D không yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng
này. vậy, căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về phạm vi xét
xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử không xem xét yêu cầu kháng cáo này của bà D.
[3] Ngoài ra, tại phần quyết định của Bản án sơ thẩm đã tuyên giao cho bà D
được quyền quản , sử dụng 50% diện tích đất 801,8m
2
tại ấp C, T, huyện Đ,
tỉnh Bình Phước và toàn bộ tài sản trên đất là chưa phù hợp nên cần điều chỉnh lại,
cần tuyên chia cho D được quản lý, sử dụng 50% quyền sử dụng đất toàn bộ
tài sản trên đất thuộc quyền sử dụng đất chung với L1, ông T theo giấy chứng
nhận số sổ phát hành DĐ 704712 và giấy chứng nhận số sổ phát hành DĐ 704711,
số vào sổ cấp GCN: CS 09652/TH ngày 08/4/2022 do Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Văn T và vợ là bà Nguyễn Thị L1 cùng sử dụng
với bà Đinh Thanh D.
[4] Về án phí dân sự thẩm giá ngạch: do giá trị tài sản các đương sự
được chia có s thay đổi nên cần sửa lại cho phù hợp, tương ứng với giá trị tài sản
ông C, bà D được chia. Cụ thể:
- Ông C tự nguyện chỉ nhận 300.000.000 đồng giá trị tài sản chung nên ông
C phải chịu án phí là 15.000.000 đồng.
- D được chia tài sản giá trị 778.101.600 đồng nên D phải chịu
án phí là 35.124.064 đồng.
12
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại
phiên toà là có căn cứ nên được chấp nhận.
[6] Về án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không
được chấp nhận nên bà D phải chịu theo quy định.
[7] Các quyết định khác của Bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Đinh Thanh D;
Sửa một phần Bản án hôn nhân gia đình thẩm số 63/2024/HNGĐ-ST
ngày 29 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 2 Điều 147; các điều 157, 165; điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các
điều 33, 59, 62 Luật n nhân Gia đình năm 2014; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn C v
việc chia tài sản chung sau ly hôn.
- Công nhận 50% quyền sử dụng diện tích đất 801,8m
2
tại ấp C, T, huyện
Đ, tỉnh Bình Phước toàn bộ tài sản trên diện tích đất 801,8m
2
tài sản chung
của ông C và bà D trong thời kỳ hôn nhân.
Chia cho Đinh Thanh D được quyền quản lý, sử dụng 50% diện tích đất
801,8m
2
tại ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước chung với ông Nguyễn Văn T
Nguyễn Thị L1. Đất đã được cấp giấy chứng nhận số sổ phát hành 704712
giấy chứng nhận số sổ phát hành 704711, số vào sổ cấp GCN: CS
09652/Tân Hưng ngày 08/4/2022 do STài nguyên Môi trường tỉnh B cấp cho
ông Nguyễn Văn T và vợ là bà Nguyễn Thị L1 cùng sử dụng với bà Đinh Thanh D.
Đinh Thanh D được quyền sử hữu toàn bộ tài sản trên đất gồm 01 căn nhà cấp
4, 01 bể nước, 01 nhà kho.
- Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C, buộc bị đơn bà
Đinh Thanh D phải trách nhiệm hoàn trả lại cho ông C giá trị tài sản chung
ông C được chia là 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng).
- Buộc bị đơn Đinh Thanh D phải trách nhiệm trả lại cho ông Nguyễn
Văn C và chị Nguyễn Thị Ý N bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích
đất 16.402,4m
2
thuộc thửa số 288, tờ bản đồ số 23 tại ấp T, xã T, huyện Đ; đất đã
được cấp giấy chứng nhận số CU 826207 cho Nguyễn Văn C Đinh Thanh D để
làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
13
Trường hợp D không giao trả bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
nêu trên thì ông Nguyễn Văn C chị Nguyễn Thị Ý N được quyền trách
nhiệm liên hệ đến quan Nhà nước thẩm quyền để thực hiện việc đăng
quyền sử dụng đất, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp
luật.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày đơn yêu
cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho
đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, ng tháng bên phải thi nh án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật
quy định khác.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì
người được thi hành án, người phải thi hành án quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các điều 6, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
- Nguyên đơn ông Nguyễn Văn C phải chịu 15.000.000 đồng (mười lăm
triệu đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 18.000.000 đồng (mười tám
triệu đồng) ông C đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0019699 ngày
23/10/2023. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ hoàn trả lại cho ông Nguyễn Văn
C số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng).
- Bị đơn Đinh Thanh D phải chịu 35.124.064 đồng (ba mươi lăm triệu
một trăm hai mươi bốn nghìn không trăm sáu mươi tư đồng).
4. Về án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm:
Đinh Thanh D phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu
trừ vào s tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền s
0010815 ngày 12/12/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bình
Phước.
5. Các quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước;
- Tòa án nhân dân huyện Đ;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ;
- Các đương sự;
- Lưu: hồ sơ vụ án; tổ HCTP, tòa GĐNCTN. (10)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Bùi Văn Bình
14
Tải về
Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất