Bản án số 08/2021/HSST ngày 02/03/2021 của TAND huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình về tội đánh bạc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 08/2021/HSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 08/2021/HSST
Tên Bản án: | Bản án số 08/2021/HSST ngày 02/03/2021 của TAND huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình về tội đánh bạc |
---|---|
Tội danh: | 248.Tội đánh bạc (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Yên Mô (TAND tỉnh Ninh Bình) |
Số hiệu: | 08/2021/HSST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/03/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN YÊN MÔ
TỈNH NINH BÌNH
Bản án số: 08/2021/HSST
Ngày 02 tháng 3 năm 2021
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Phan Ngọc Hà
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Phạm Văn Ký
2. Ông Nguyễn Văn Huyền
- Thư ký phiên toà: Bà Phạm Thị Huệ – Thư ký Toà án nhân dân huyện Yên
Mô, tỉnh Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình tham gia
phiên toà: Bà Trịnh Thị Loan - Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh
Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2021/TLST - HS
ngày 05 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/
QĐXXST – HS ngày 19 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Đức C, tên gọi khác không, sinh ngày 20/10/1978; Nơi sinh:
Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn Vân Hạ, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh
Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính:
Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T; con bà
Nguyễn Thị T; Vợ Nguyễn Thị V, con có 3 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con
nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số
41/2014/ HSST ngày 13/11/2014 của Tòa án nhân dân huyện Yên Mô xử phạt 5
triệu đồng về tội “ đánh bạc” Ngày 13/11/2014 bị cáo đã chấp hành xong bản án;
Ngày 26/2/2016 bị Công an huyện Yên Mô xử phạt hành chính, phạt tiền
1.000.000đồng về hành vi đánh bạc. Ngày 04/3/2016 chấp hành xong tiền phạt. Bị
cáo đang chấp hành lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Xuân T, tên gọi khác không, sinh ngày 10/02/1982; Nơi
sinh: Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn Vân Hạ, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh
Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh;
giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Mạnh V;
con bà Nguyễn Thị H; vợ Lê Thị Kim O, con có 2 con, con lớn sinh năm 2006, con
2
nhỏ sinh năm 2008; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo đang chấp hành lệnh
Cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Đức C là người tự đứng ra làm chủ đề bán cho khách thông qua tin
nhắn điện thoại để thu lời bất chính. Mức độ thắng điểm lô C bán 01 điểm lô =
23.000 đồng nếu trúng được 80.000 đồng. Việc thanh toán trả tiền dựa trên kết quả
xổ số kiến thiết Miền Bắc. Do có quan hệ bạn bè từ trước, biết C bán số lô số đề
nên vào hồi 17 giờ 59 phút ngày 15/12/2020, Nguyễn Xuân T ngồi tại nhà mình sử
dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus đăng nhập vào tài khoản Zalo của
mình có tên “ Xuan tuan” đăng ký bằng sim thuê bao 0386225557 để nhắn tin đến
tài khoản Zalo có tên “ Nguyencanh” của Nguyễn Đức C đăng ký bằng sim thuê
bao số 0973267625 được đăng ký trên điện thoại di động nhãn hiệu VIVO để T
mua 3 số lô 38, 83, 69 mỗi số lô 30 điểm; mua 3 số lô 68, 75, 73 mỗi số lô 20
điểm. Tổng cộng T mua của C 150 điểm lô. Sau khi T nhắn tin C đang ở nhà, nhận
được tin trả lời T nội dung “ ok” nghĩa là đồng ý bán cho T các số lô T đã nhắn tin.
Theo thỏa thuận giữa T và C mỗi điểm lô có giá 23.000đồng nên tổng số tiền mua
bán số lô giữa C và T là 3.450.000đồng. Ngay sau khi có kết quả xổ số kiến thiết
miền Bắc vào 18 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Đức C đối chiếu với các số lô đã
bán cho Nguyễn Xuân T thì T trúng số lô 38 với 30 điểm và số lô 75 với 20 điểm,
tổng cộng T trúng 50 điểm lô với tổng số tiền 4.000.000đồng. Như vậy tổng số tiền
C sử dụng để đánh bạc với T trong ngày 15/12/2020 là 7.450.000đồng. Sau khi đối
trừ tiền trúng thưởng C còn phải thanh toán cho T số tiền 550.000đồng, số tiền này
C chưa thanh toán cho T.
Vào hồi 18 giờ 01 phút ngày 17/12/2020 Nguyễn Xuân T tiếp tục có hành vi
dùng điện thoại di động nhắn tin để mua 60 điểm lô, 02 số đề hai số và 03 số lô
xiên 3 của Nguyễn Đức C với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 1.580.000đồng
thì bị cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Mô phát hiện, lập biên bản thu giữ của
Nguyễn Đức C 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO bên trong lắp sim thuê
bao số 0973267625, thu giữ của Nguyễn Xuân T 01 chiếc điện thoại di động
Iphone 7 Plus bên trong lắp sim thuê bao số 0386225557.
Tại bản cáo trạng số: 10/CT-VKS ngày 03 tháng 2 năm 2021, Viện kiểm sát
nhân dân huyện Yên Mô đã truy tố các bị can: Nguyễn Đức C, Nguyễn Xuân T ra
trước Tòa án nhân dân huyện Yên Mô để xét xử về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1,
khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân
dân huyện Yên Mô vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố các bị
cáo Nguyễn Đức C, Nguyễn Xuân T phạm tội Đánh bạc
Về hình phạt: Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 36 bộ Luật Hình sự đối với Nguyễn Đức C ( áp dụng khoản 1 Điều
3
321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 35 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn
Xuân T)
Xử phạt Nguyễn Đức C từ 12 tháng đến 15 tháng cải tạo không giam giữ,
thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã Yên Thắng,
huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản
án đối với Nguyễn Đức C.
Giao bị cáo Nguyễn Đức C cho Uỷ ban nhân dân xã Yên Thắng, huyện Yên
Mô, tỉnh Ninh Bình nơi bị cáo Nguyễn Đức C thường trú để giám sát, giáo dục bị
cáo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong
việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại
Luật Thi hành án hình sự.
+ Phạt bổ sung từ 10 đến 15 triệu đồng
+ Khấu trừ từ 5% đến 10% thu nhập trong thời gian chấp hành án cải tạo
không giam giữ;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T từ 25 triệu đến 30 triệu đồng
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; các điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật
tố tụng hình sự tịch thu sung NSNN số tiền 7.450.000đồng; Tịch thu sung quỹ Nhà
nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO của Nguyễn Đức C được đựng trong
phong bì giấy niêm phong thu giữ của Nguyễn Đức Cảnh ghi ngày 18/12/2020; 01
chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus được đựng trong phong bì niêm phong của
Nguyễn Xuân Tghi ngày 17/12/2020;
Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ sim có số thuê bao 0973267625 của Nguyễn Đức
C; 01 thẻ sim có số thuê bao 0386225557 của Nguyễn Xuân T.
Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Đức C,
Nguyễn Xuân T mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy
định của pháp luật.
Các bị cáo cho rằng bị xét xử là đúng người, đúng tội và đề nghị được hưởng
mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Yên
Mô, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá
trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có
ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
4
[2] Lời khai của các bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án, biên bản vi phạm cũng như vật chứng được thu giữ có đủ căn cứ
để xác định. Khoảng 17 giờ 59 phút ngày 15/12/2020 tại thôn Vân Hạ, xã Yên
Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, Nguyễn Đức C, Nguyễn Xuân T đã có
hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức sử dụng điện thoại di động để mua bán
số lô với tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 7.450.000đồng.
Hành vi dùng điện thoại để mua bán số lô với nhau nêu trên mà các bị cáo
thực hiện đã phạm tội đánh bạc, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1, khoản
3 Điều 321 của Bộ luật hình sự.
Tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự quy định “ Người nào đánh bạc
trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ
5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000đồng nhưng đã bị
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc vi phạm quy định tại Điều 322
của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ
luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000đồng
đến 100.000.000đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm”
Khoản 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đồng đến
50.000.000 đồng”
[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an
toàn công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương. Từ cờ bạc dẫn
đến hàng loạt các loại tội phạm khác. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật
thì cần thiết phải đưa ra xét xử với mức hình phạt nghiêm khắc, có như vậy mới
nhằm ngăn chặn tệ nạn đánh bạc nói riêng và phòng ngừa tội phạm chung trên địa
bàn.
[4] Xét về vị trí vai trò: Trong vụ án không có sự phân công bàn bạc từ
trước, các bị cáo cùng nhau đánh bạc C là người đứng ra làm chủ đề còn T là người
chơi, nên có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn. Cảnh là người có vai trò
thứ nhất, T là người có vai trò thứ hai nên trong vụ án C phải chịu mức hình phạt
nghiêm khắc hơn so với T.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các
bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được
hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại s khoản 1 Điều 51 Bộ
Hình sự. Nguyễn Xuân T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị
cáo có bố đẻ tham gia kháng chiến bị thương tật được hưởng chế độ thương binh
nên bị cáo được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ được quy đinh tại điểm i khoản
1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo C có bố đẻ tham gia kháng chiến chống
mỹ cứu nước được phong tặng huân chương chiến sỹ vẻ vang do đó bị cáo C được
hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Cả hai bị cáo không có tình tiết
tăng nặng.
5
Bị cáo Nguyễn Đức C là người có nhân thân xấu đã từng bị xét xử về tội
đánh bạc, tính đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã được xóa án, để bị
cáo nhận thức được đối với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thì cần thiết
phải xử phạt bị cáo với mức hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ để bị cáo
nhận ra lỗi lầm của mình để sửa chữa bản thân. Khi quyết định hình phạt, cần áp
dụng hình phạt bổ sung bằng phạt tiền và khấu trừ thu nhập đối với C.
Đối với Nguyễn Xuân T là người có nhân thân tốt không có tiền án, tiền sự,
quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, bị cáo có nhiều tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự do đó chỉ cần
xử phạt bị cáo bằng hình phạt bằng phạt tiền là hình phạt chính.
[6] Quá trình điều tra còn xác định vào ngày 17/12/2020 C và T đã có hành
vi đánh bạc bằng hình thức sử dụng điện thoại di động nhắn tin mua bán với nhau
số lô với tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 1.580.000đồng. Hành vi đánh
bạc của T và C nêu trên là vi phạm hành chính nên Công an huyện Yên Mô đã ra
quyết định xử phạt hành chính đối với C và T.
[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:
Đối với số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc, trong quá trình điều tra
cũng như tại phiên tòa xác định: Nguyễn Đức C dùng số tiền 4.000.000đồng,
Nguyễn Xuân T dùng số tiền 3.450.000đồng hai bị cáo đã tự nguyện giao nộp. Số
tiền này là tiền dùng vào việc đánh bạc do đó cần tịch thu nộp ngân sách Nhà
Nước.
Đối với hai chiếc điện thoại mà T và C dùng để nhắn tin mua bán số lô với
nhau. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Yên Mô đã thu giữ là vật chứng
liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106
Bộ luật tố tụng hình sự.
[8] Các bị cáo bị kết án, nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo
quy định của pháp luật. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 23
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.
[9] Các bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về áp dụng điều luật: Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s
khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Đức C ( áp
dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 35 Bộ luật hình
sự đối với Nguyễn Xuân T); điểm a khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự; các
điểm a, b khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 23 của
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.
6
1.1. Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Đức C, Nguyễn Xuân T phạm tội “ đánh
bạc”.
1.2. Xử phạt Nguyễn Đức C 12 ( mười hai ) tháng cải tạo không giam giữ,
thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Uỷ ban nhân dân xã Yên Thắng,
huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản
án đối với Nguyễn Đức C.
Giao bị cáo Nguyễn Đức C cho Uỷ ban nhân dân xã Yên Thắng, huyện Yên
Mô, tỉnh Ninh Bình nơi bị cáo Nguyễn Đức C thường trú để giám sát, giáo dục bị
cáo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong
việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại
Luật Thi hành án hình sự.
+ Phạt bổ sung 10.000.000đồng ( mười triệu đồng).
+ Khấu trừ 5% thu nhập trong thời gian chấp hành án cải tạo không giam
giữ; trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm trong thời
gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ
cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ ( thời gian lao động phục vụ
cộng đồng không quá 4 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần).
1.3 Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 25.000.000đ ( Hai mươi lăm triệu đồng)
2. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:
2.1 Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 7.450.000 ( Bẩy triệu, bốn trăm
năm mươi nghìn đồng)
2.2 Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu VIVO
của Nguyễn Đức C được đựng trong phong bì giấy niêm phong thu giữ
của Nguyễn Đức C ghi ngày 18/12/2020; 01 chiếc điện thoại di động
Iphone 7 Plus được đựng trong phong bì niêm phong của Nguyễn Xuân
T ghi ngày 17/12/2020;
2.3 Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ sim có số thuê bao 0973267625 của Nguyễn
Đức C; 01 thẻ sim có số thuê bao 0386225557 của Nguyễn Xuân T.
(Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 02 năm
2021 và ủy nhiệm chi lập ngày 28 tháng 01năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều
tra Công an huyện Yên Mô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Mô).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Nguyễn Đức C, Nguyễn Xuân
T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Án xử công khai sơ thẩm báo để các bị cáo biết có quyền kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
7
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Ninh Bình;
- VKSND huyện Yên Mô;
- Công an huyện Yên Mô;
- UBND xã Yên Thắng, huyện Yên
Mô;
- Sở Tư pháp Ninh Bình;
- Phòng HSNV Công an tỉnh Ninh Bình
- Chi cục THADS huyện Yên Mô;
- Các bị cáo;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Đã ký
Phan Ngọc Hà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 22/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 21/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Bản án số 03/2024/HS-ST ngày 23-01-2024 của TAND huyện Cẩm Xuyên (TAND tỉnh Hà Tĩnh) về tội đánh bạc
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 19/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 16/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 10/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 19/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 15/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 11/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 11/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 11/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 06/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm