Bản án số 07/2024/HNGĐ-ST ngày 25/09/2024 của TAND huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 07/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 07/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 07/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 07/2024/HNGĐ-ST ngày 25/09/2024 của TAND huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Nậm Nhùn (TAND tỉnh Lai Châu) |
Số hiệu: | 07/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị Cà Thị Phóng ly hôn với anh Lò Văn Dũng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN NẬM NHÙN Độc lập -Tự do -Hạnh phúc
TỈNH LAI CHÂU
Bản án số: 07/2024/HNGĐ-ST
Ngày 25-9-2024
V/v “Ly hôn, tranh chấp nuôi
con khi ly hôn ”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông: Đồng Văn Dũng
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông : Phan Văn Thóc
2. Bà: Lò Thị Chương
- Thư ký phiên tòa: Ông: Bà Thào Thị Nhung - Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn tham gia phiên tòa:
Ông: Đặng Hồng Hạnh - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh
Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 17/2024/TLST-HNGĐ ngày 03
tháng 6 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 08/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 09 năm 2024
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Cà Thị P, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Tổ dân phố N, thị
trấn N, huyện N, tỉnh Lai Châu. (Có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa).
2. Bị đơn: Anh Lò Văn D, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Tổ dân phố N, thị trấn
N, huyện N, tỉnh Lai Châu. (Hiện đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa
vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma tuý tỉnh Quảng Ninh). Có
đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 27/05/2024 và tại các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Cà Thị P trình bày:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lò Văn D đến với nhau có đăng ký kết
hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện N, tỉnh Lai Châu vào ngày 13/3/2017.
Chị và anh D kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc. Sau khi
kết hôn, chị và anh D chung sống hòa thuận hạnh phúc nhưng đến năm 2023 thì
cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan
điểm sống, không hợp nhau, không có tiếng nói chung, anh D không chịu làm ăn,
nghiện hút ma túy, đánh chửi vợ con, mặc dù hai bên gia đình đã khuyên bảo nhiều
lần nhưng anh D vẫn không thay đổi nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên
trầm trọng. Năm 2023 anh D đi làm Công ty D2 nhưng do nghiện ma túy nên tháng
01 năm 2024 anh D bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18
tháng. Hiện nay anh D đang chấp hành tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Quảng
Ninh. Nay chị P nhận thấy tình cảm giữa chị và anh D không còn, cuộc sống chung
không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai
Châu giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lò Văn D.
2. Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị Cà Thị P và anh Lò Văn D có
02 (hai) con chung chưa thành niên là cháu Lò Minh K, sinh ngày 24/11/2023 và
cháu Lò Hữu P1, sinh ngày 27/01/2019. Khi ly hôn chị Cà Thị P có yêu cầu được
trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung chưa thành
niên đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu anh Lò Văn D cấp dưỡng
nuôi con chung.
3. Về chia tài sản: Tài sản chung; tài sản riêng và vay nợ chung: Chị Cà Thị
P không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, kèm theo đơn khởi kiện
chị Cà Thị P đã nộp cho Tòa án: Trích lục kết hôn số 04/2017, ngày 13/3/2017;
bản sao có chứng thực Giấy khai sinh số 06/2019, ngày 04/3/2019; bản sao có
chứng thực Giấy khai sinh số 04/2013, ngày 24/12/2013 của Ủy ban nhân dân thị
trấn C; bản sao căn cước công dân chị P; bản sao Giấy chứng minh nhân dân anh
D; Giấy xác nhận thông tin về nơi cư trú và bản sao quyết định áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc giao nộp tài liệu chứng
cứ đúng thời gian và đúng trình tự thủ tục.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tại Bản tự khai, các tài liệu chứng cứ kèm
theo, đơn xin từ chối tham gia hòa giải và xét xử vắng mặt bị đơn anh Lò Văn D
trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh Lò Văn D khẳng định về thời gian sống chung
và đăng ký kết hôn như chị Cà Thị P trình bày là đúng. Thời gian đầu cuộc sống
hôn nhân giữa anh và chị P sống chung rất hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì xảy
ra, nhưng do anh bị nghiện nên đến tháng 01 năm 2024 thì anh bị Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ninh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện
bắt buộc với thời hạn 18 (mười tám) tháng, hiện đang chấp hành tại Cơ sở cai
nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh, địa chỉ: Thôn Đ, xã V, thành phố H, tỉnh Quảng
Ninh. Anh D1 thừa nhận bản thân nghiện chất ma túy từ năm 2023, tuy nhiên gia
đình không biết. Quá trình chung sống anh, chị có xảy ra mâu thuẫn, cãi vã tuy
nhiên chưa có hành vi bạo lực gia đình, mặc dù vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn
nhưng do còn tình cảm với chị P nên anh D1 không đồng ý ly hôn với chị P.
Về nuôi con chung: Anh Lò Văn D công nhận trong quá trình sống chung
với nhau anh và chị P có 02 (hai) con chung như chị Cà Thị P trình bày là đúng.
Hiện nay con chung đang sống chung cùng chị P và ông bà nội. Do anh D không
muốn ly hôn với chị P nên về con chung anh D không có ý kiến hay quan điểm gì
về việc nuôi con chung.
Về chia tài sản: Tài sản chung; tài sản riêng và vay nợ chung: Anh Lò Văn
D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án nhân dân huyện
Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã thụ lý vụ án và tiến hành xác minh tại nơi cư trú của
chị Cà Thị P và anh Lò Văn D xác định: Chị Cà Thị P và anh Lò Văn D tự nguyện
tìm hiểu, sống chung với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn N,
huyện N, tỉnh Lai Châu. Sau khi kết hôn anh, chị sống chung cùng nhà với bố mẹ
chồng và có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố N, thị trấn N, huyện N,
tỉnh Lai Châu. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng sống vui vẻ, hạnh
phúc tuy nhiên do anh D không chịu tu chí làm ăn, chỉ chơi bời và nghiện hút ma
túy nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, đánh chửi lẫn nhau,
nhưng mâu thuẫn chỉ xảy ra trong nội bộ gia đình tự giải quyết được nên chưa có
lần nào phải yêu cầu đến lãnh đạo bản, lãnh đạo xã đứng ra can thiệp hay tổ chức
hòa giải mâu thuẫn giữa hai vợ chồng. Hiện nay anh D đang chấp hành việc áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai
nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh, còn chị P thì vẫn ở nhà bố mẹ chồng cùng các
con tại tổ dân phố N, thị trấn N, huyện N, tỉnh Lai Châu.
Chị Cà Thị P và anh Lò Văn D sống chung với ông bà nội tại ngôi nhà gỗ
ba gian tại tổ dân phố N, thị trấn N, huyện N, tỉnh Lai Châu. Cả hai đều là lao
động tự do với mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại trên địa bàn thị
trấn N là 45.000.000 đồng/năm (khoảng 3.750.000 đồng/tháng). Chị Cà Thị P
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và quy định của địa phương, không vi phạm
pháp luật, không mắc tệ nạn xã hội, riêng đối với anh Lò Văn D nghiện chất ma
túy, hiện đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc, trong thời gian chấp hành quyết định anh D không có
thu nhập.
Trong thời kỳ hôn nhân, chị Cà Thị P và anh Lò Văn D có 02 (hai) con
chung chưa thành niên là cháu Lò Minh K, sinh ngày 24/11/2013 và cháu Lò Hữu
P1, sinh ngày 27/01/2019. Hiện con chung đang sinh sống cùng với chị P và ông
bà nội. Cả hai con chung đều được đi học. Tại biên bản ghi nhận ý kiến về nguyện
vọng của con chung chưa thành niên cháu Lò Minh K có nguyện vọng sống cùng
với mẹ là chị Cà Thị P.
Các đương sự không thỏa thuận, thống nhất được với nhau về việc ly hôn,
việc nuôi con chưa thành niên. Nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử.
Tại Đơn xin xét xử vắng mặt ngày 20 tháng 9 năm 2024 nguyên đơn chị Cà
Thị P vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn
với anh Lò Văn D theo nội dung đơn xin ly hôn của chị P đã trình bày.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai
Châu phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp Luật Tố tụng dân sự trong thời gian chuẩn bị xét xử:
Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền thụ lý vụ án;
thụ lý đơn yêu cầu ly hôn; việc xác định quan hệ tranh chấp và tư cách của đương
sự trong vụ án; việc ra và gửi thông báo thụ lý cũng như quyết định đưa vụ án ra xét
xử cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đúng thời hạn quy định. Về việc tuân theo
pháp luật của Hội đồng xét xử và Thư ký: Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử,
Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Việc chấp hành
pháp luật của người tham gia tố tụng: Về phía các đương sự từ khi thụ lý vụ án cũng
như tại phiên tòa đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định
của pháp luật.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1
Điều 28, Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147 điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3
Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57
Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ cùng tài liệu chứng cứ
được công khai tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho
chị Cà Thị P ly hôn với anh Lò Văn D.
Về con chung: Giao cho chị Cà Thị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng. Giáo dục cả hai con chung chưa thành niên là cháu Lò Minh K, sinh ngày
24/11/2013 và cháu Lò Hữu P1, sinh ngày 27/01/2019 cho đến khi con cung thành
niên (đủ 18 tuổi) không mất năng lực hành vi dân sự, có khả năng lao động. Do
chị Cà Thị P không yêu cầu anh Lò Văn D cấp dưỡng nuôi con chung nên không
xem xét giải quyết.
Về tài sản chung, tài sản riêng, vay nợ chung: Chị Cà Thị P và anh Lò Văn
D không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí giải quyết vụ án dân
sự theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại
phiên toà và căn cứ vào diễn biến phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân huyện Nậm Nhùn, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Lò Văn D có nơi cư trú tại tổ dân phố N, thị trấn
N, huyện N, tỉnh Lai Châu. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1
Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.
Ngày 25/9/2024, Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn mở phiên tòa, chị Cà Thị
P và anh Lò Văn D đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt có đơn xin xét xử vắng
mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của các đương sự, kết quả xác
minh tại chính quyền địa phương và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có
đủ cơ sở xác định:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Cà Thị P và anh Lò Văn D tự nguyện tìm
hiểu, sống chung có đăng ký kết hôn năm 2017 tại Ủy ban nhân dân thị trấn N,
huyện N, tỉnh Lai, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, ép buộc. Như
vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị P và anh D là hôn nhân hợp pháp.
Chị Cà Thị P và anh Lò Văn D sống chung hạnh phúc đến năm 2023 thì phát
sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh D không chịu làm ăn, nghiện hút ma túy và
thường xuyên đánh chửi vợ con. Mâu thuẫn xảy ra đã được hai bên gia đình động
viên hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Anh Lò Văn D thừa nhận bản thân sử
dụng và nghiện chất ma túy từ năm 2023, đến năm 2024 phải chấp hành quyết định
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và từ đó anh
chị sống ly thân cho đến nay.
Qua kết quả xác minh tại chính quyền địa phương cho biết: Chị P và anh D
có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại bản tổ dân phố N, thị trấn N, huyện N, tỉnh
Lai Châu. Về mâu thuẫn vợ chồng thì quá trình chung sống tại địa phương, chị P và
anh D có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh D không chịu tu chí làm ăn, chỉ
chơi bời và nghiện hút ma túy. Hiện anh D đang phải chấp hành quyết định cai
nghiện. Trong thời gian anh D cai nghiện các con chung ở cùng với chị P và ông bà
nội, chị P là người chu cấp tiền nuôi con chung đảm bảo các điều kiện sinh hoạt,
học tập của các con. Đại diện chính quyền địa phương xác nhận anh Lò Văn D là
đối tượng sử dụng chất ma túy, hiện đang phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh.
Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Cà Thị P và anh Lò
Văn D xảy ra trầm trọng, tình cảm vợ chồng đã rạn nứt không thể hàn gắn. Anh Lò
Văn D nghiện chất ma túy, không chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, có lỗi dẫn đến
ly hôn. Các bên đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng như không còn yêu thương nhau,
không còn sự tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau cùng chia sẻ, thực hiện
các công việc của gia đình và hiện nay anh, chị đã ly thân làm cho hôn nhân lâm
vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân
không đạt được. Nên yêu cầu của chị P được ly hôn với anh D là có căn cứ phù hợp
với các quy định tại Điều 52; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, nên cần
chấp nhận.
[2.2] Về con chung: Căn cứ bản sao có chứng thực Giấy khai sinh số 06 ngày
04/3/2019; bản sao có chứng thực Giấy khai sinh số 04 ngày 24/12/2013 của Ủy
ban nhân dân thị trấn N, huyện N, tỉnh Lai Châu cấp xác nhận trong thời kỳ hôn
nhân chị Cà Thị P và anh Lò Văn D có 02 (hai) con chung chưa thành niên là cháu
Lò Minh K, sinh ngày 24/11/2013 và cháu Lò Hữu P1, sinh ngày 27/01/2019.
Xét về điều kiện nuôi con chung, anh Lò Văn D và chị Cà Thị P đều có nơi
cư trú ổn định tại tổ dân phố N, thị trấn N, huyện N, tỉnh Lai Châu; anh chị có nghề
nghiệp là lao động tự do với mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa
phương là 45.000.000 đồng/năm (khoảng 3.750.000 đồng/người/tháng). Chị Cà Thị
P chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và quy định của địa phương, không mắc tệ nạn
xã hội, riêng anh Lò Văn D nghiện chất ma túy, hiện đang phải chấp hành quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, trong
thời gian chấp hành quyết định anh D không có thu nhập. Qua xác minh và bản thân
anh Lò Văn D thừa nhận anh nghiện chất ma túy nên không có đủ điều kiện để đảm
bảo quyền lợi về mọi mặt cho con. Về phía chị Cà Thị P có điểu kiện đảm bảo việc
sinh hoạt, học tập của con chung chưa thành niên.
Tại thời điểm giải quyết vụ án xác định cháu Lò Minh K đã trên 7 tuổi, căn
cứ khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, khoản 3 Điều 208
của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn tiến hành hỏi ý kiến
con chung chưa thành niên. Ý kiến của con chung chưa thành niên muốn ở cùng với
mẹ là chị Cà Thị P, do bố là anh Lò Văn D nghiện chất ma túy gây ảnh hưởng đến
tâm lý và sinh hoạt, học tập của các cháu.
Tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình ở địa phương đề
nghị Tòa án xem xét, do anh Lò Văn D nghiện chất ma túy, hiện đang phải chấp
hành quyết định cai nghiện nên không đảm bảo việc nuôi con. Do đó, cần giao con
chung chưa thành niên cho chị Cà Thị P là người có đủ điều kiện hơn trong việc
đảm bảo sinh hoạt về mọi mặt của con chung chưa thành niên, tránh những xáo trộn
về môi trường sống, học tập dễ ảnh hưởng đến tâm lý trẻ em.
Hội đồng xét xử nhận thấy, cháu Lò Minh K và Lò Hữu P1 hiện đang ở độ
tuổi rất cần sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ, để đảm bảo phát triển
về thể chất, tinh thần và nhân cách. Do đó, căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của
con, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị Cà Thị P, giao cho chị P trực
tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung chưa thành niên
từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi)
không mất năng lực hành vi dân sự, có khả năng lao động.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Cà Thị P không yêu cầu anh Lò Văn D
cấp dưỡng nuôi con chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét
không xem xét.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung, cho vay chung: Do các đương sự không
có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[2.4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn tham
gia phiên tòa về việc giải quyết nội dung vụ án là có căn cứ, đúng quy định của
pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.
[2.5] Về án phí: Nguyên đơn chị Cà Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
trong vụ án ly hôn.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 143, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 267,
Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 51, Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81,
Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Cà
Thị P, xử cho chị Cà Thị P ly hôn với anh Lò Văn D.
2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Cà Thị P trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung chưa thành niên là cháu Lò Minh K, sinh
ngày 24/11/2013 và cháu Lò Hữu P1, sinh ngày 27/01/2019 từ khi Bản án có hiệu
lực pháp luật cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi) không mất năng lực
hành vi dân sự, có khả năng lao động.
Anh Lò Văn D có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với chị
Cà Thị P theo quyết định của Tòa án. Chị P có quyền yêu cầu anh D cùng các thành
viên trong gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
Anh Lò Văn D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được
cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Cà Thị P không yêu cầu anh Lò Văn D
cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét.
3. Về tài sản chung và nợ chung, cho vay chung: Do các đương sự không yêu
cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Cà Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Xác nhận chị Cà Thị P đã nộp tiền tạm ứng án
phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng
án phí lệ phí Tòa án số 0000467 ngày 03/06/2024 tại Chi Cục Thi hành án dân sự
huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu nay chuyển thành án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản
án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án
được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu; THẨM PHÁN-CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn;
- Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Nậm Nhùn;
- UBND thị trấn Nậm Nhùn, huyện Nậm Nhùn;
- Nguyên đơn;
- Bị đơn;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Tải về
Bản án số 07/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 07/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 17/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm