Bản án số 06/2025/DS-ST ngày 28/05/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Hải Phòng, TP. Hải Phòng về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 06/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 06/2025/DS-ST ngày 28/05/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Hải Phòng, TP. Hải Phòng về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 11 - Hải Phòng, TP. Hải Phòng |
Số hiệu: | 06/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Võ Văn Đ yêu cầu bà Trương Thị T phải trả số tiền họ còn nợ là 270.000.000đồng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà: Bà Phạm Mỹ Như
Các hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Ngọc Phan.
2. Ông Phạm Xuân Sang.
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Văn Hùng - Thư ký TAND huyện Tứ Kỳ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ tham gia phiên toà: Bà
Nguyễn Thanh Vân - Kiểm sát viên.
Trong ngày 28 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh
Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 46/2024/TLST-DS ngày 14 tháng
10 năm 2024. về việc “Tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường”, theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 05/2025/QĐST-DS ngày 02 tháng 4 năm 2025, Quyết định hoãn phiên
tòa số 05/2025/ QĐST-DS ngày 23 tháng 4 năm 2025, Thông báo thay đổi thời gian
mở phiên tòa số 02/2025/TB – TA ngày 19 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Võ Văn Đ , sinh năm 195x; Địa chỉ: Phố Q, xã N, huyện
TK, tỉnh Hải Dương.
- Bị đơn: Bà Trương Thị T sinh năm 196x; Địa chỉ: Phố Q, xã N, huyện TK,
tỉnh Hải Dương.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Hoàng Thị D , sinh năm 196x; Địa chỉ: Phố Q, xã N, huyện TK, tỉnh
Hải Dương.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Hoàng Thị D là ông Võ Văn Đ , sinh
năm 195x; Địa chỉ: Phố Q, xã N, huyện TK, tỉnh Hải Dương. (văn bản ủy quyền
ngày 18/10/2024).
2. Ông Trần Huy B , sinh năm 196x, nơi cư trú: Phố Q, xã N, huyện TK, tỉnh Hải
Dương.
Người làm chứng:
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TỨ KỲ,
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 06/2025/DS-ST
Ngày: 28 – 5 – 2025.
“V/v tranh chấp hụi, họ, biêu, phường”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
1. Bà Lê Thị K, sinh năm 195x; Địa chỉ: Thôn A , xã N , huyện TK, tỉnh Hải
Dương.
2. Bà Hoàng Thị S, sinh năm 196x; Địa chỉ: Phố Q, xã N, huyện TK, tỉnh Hải
Dương.
3. Anh Bùi Quốc Đ , sinh năm 200x; Địa chỉ: Phố Q, xã N, huyện TK, tỉnh
Hải Dương.
4. Ông Đỗ Xuân S1, sinh năm: 195x; Địa chỉ: Phường C , thành phố H, tỉnh
Hải Dương;
5. Bà Trần Thị T1, sinh năm 195x; Địa chỉ: Phố Q, xã N, huyện TK, tỉnh Hải
Dương.
6. Nguyễn Thị V , sinh năm 195x; Địa chỉ: Phố Q, xã N, huyện TK, tỉnh Hải
Dương.
7. Bà Phạm Thị Ngọc A (Ngì), sinh năm 196x; Địa chỉ: Phố Q, xã N, huyện
TK, tỉnh Hải Dương.
(Các đương sự và người làm chứng có mặt tại phiên tòa).
NỘI D VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai cùng các tài liệu
khác có trong hồ sơ, nguyên đơn ông Võ Văn Đ (đồng thời là đại diện theo ủy
quyền của bà Hoàng Thị D ) trình bày:
Vợ chồng ông Đ , bà D và bà T là họ hàng xa, có quan hệ cho vay tiền,
tham gia chơi họ, phường từ năm 2015. Vào khoảng năm 2017 – 2018, vợ chồng
ông, bà làm chủ phường, bà T tham gia họ, phường cụ thể như sau:
+ Phường 90 (6.000.000đồng/phần/tháng, 15 phần, 90.000.000đồng), mở
ngày 10/10/2017 (âm lịch), kết thúc ngày 10/12/2018 (âm lịch), bà T tham gia và
nhận 02 phần vào ngày 20/10/2017. Tổng là 180.000.000đồng.
+ Phường 36 (3.000.000đồng/tháng/phần, 12 phần, tổng 36.000.000đồng),
mở ngày 10/01/2018 (âm lịch), kết thúc ngày 10/12/2018 (âm lịch). Bà T nhận
tiền là 36.000.000đồng.
+ Phường 30 (mỗi phần 3.000.000đồng/tháng, 10 phần, tổng
30.000.000đồng); mở ngày 10/3/2018 (âm lịch), kết thúc ngày 10/12/2018 (âm
lịch), bà T tham gia 01 phần và nhận phường ngày 20/3/2018 (âm lịch) số tiền
30.000.000đồng
+ Phường 24 (gồm 12 phần/12 tháng, mỗi tháng 2.000.000đồng); mở ngày
10/01/2018 (âm lịch), kết thúc ngày 10/12/2018 (âm lịch), bà T tham gia 01 phần
và nhận phường ngày 20/01/2018 (âm lịch), số tiền 24.000.000đồng.
Như vậy, bà T tham gia 04 phường và đã nhận là 270.000.000đồng.
Khi tham gia phường, sổ sách theo dõi do ông Đ , bà D trực tiếp ghi chép,
các phần phường được ghi danh sách người tham gia, giao nhận tiền và ông Đ ,
3
bà D trực tiếp nhận tiền phường và giao tiền cho các phường viên được nhận
trong tháng, không có lập biên bản giao nhận cũng như ký tên xác nhận giao nhận
tiền. Việc xác định người được nhận tiền phường trong tháng chủ yếu là ưu tiên
cho người nào cần trước hoặc khi bốc thăm để xác định người nhận phường. Số
tiền lãi ở các phường cũng không cố định, không có ghi cụ thể. Bà T tham gia,
mua nhận tiền phường nhưng bà T không nộp lại tiền để ông Đ và bà D trả lại
cho các phường viên khác. Ông Đ , bà D phải nộp thay phần Phường mà bà T đã
nhận để trả cho những người tham gia phường. Đến ngày 30/12/2018 (âm lịch),
khi phường kết thúc, bà T có xác nhận nợ tiền phường, họ là 270.000.000đồng,
bà T có ghi vào sổ của bà D nội D “Ngày 30/12/2018 âm lịch nợ tổng tiền họ là
270.000.000đồng bằng trữ (Hai trăm B mươi triệu đồng chẵn” để chốt số tiền
phường bà T còn nợ lại ông Đ và bà D. Xác nhận nợ tiền họ là do bà T viết và
ký tên. Trong sổ phường có khi thì ghi là phường, khi thì ghi là họ.
Ngoài ra, trước thời điểm tham gia phường bà T đã nhiều lần vay tiền của vợ chồng
ông Đ , bà D bằng các biên nhận và giấy vay nợ cụ thể: giấy vay tiền ngày 24/6/2015 số tiền
50.000.000đồng; giấy vay tiền ngày 21/11/2015 số tiền là 100.000.000đồng, hợp đồng vay
vốn tư nhân ngày 17/01/2017 số tiền 200.000.000đồng; hợp đồng vay vốn tư nhân ngày
20/01/2017 số tiền 50.000.000đồng; hợp đồng vay vốn tư nhân ngày 01/01/2019 số tiền
300.000.000đồng, hợp đồng vay vốn tư nhân ngày 10/3/2020 số tiền 300.000.000đồng. Sau
nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông B , bà T trả nợ nhưng ông B , bà T không trả. Đầu năm
2024, vợ chồng ông Đ , bà D có làm đơn yêu cầu Công an xã Nguyên Giáp giải quyết. Ngày
08/02/2024, tại Công an xã N, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, vợ chồng ông Đ , bà D và vợ
chồng ông B , bà T đã thống nhất chốt khoản nợ vay với nhau 300.000.000đồng tiền vay,
tiền lãi là 50.000.000đồng. Ông Bảy, bà T có trả 300.000.000đồng và hẹn 30/10/2024 (âm
lịch) trả 50.000.000đồng. Phần này giữa ông Đ , bà D và bà T đã thỏa thuận xong, không
đề nghị giải quyết.
Ngày 22/4/2024, ông Đ, bà D tiếp tục yêu cầu bà T trả tiền họ còn nợ là
270.000.000đồngnhưng bà T không thống nhất trả mà cho rằng số tiền nợ phường đã chuyển
vào số tiền vay và chốt lại 300.000.000đồng, đã giải quyết xong. Ông Đ , bà D không thống
nhất vì việc chốt nợ 300.000.000đồng và tiền lãi là 50.000.000đồng là chốt số tiền vợ chồng
bà T, ông B vay của vợ chồng ông, bà. Thời điểm chốt nợ vay, trong biên bản ngày
08/02/2024 bà T xác nhận là nợ vay. Thời điểm các bên giải quyết số tiền vay, ông có yêu
cầu giải quyết tiền phường nhưng chưa được giải quyết. Do cần tiền để giải quyết công nợ
nên vợ chồng ông ký thống nhất biên bản chốt nợ vay để nhận số tiền 300.000.000đồng mà
vợ chồng ông B , bà T trả. Nay ông Đ yêu cầu bà T phải trả cho ông và bà D số tiền họ,
phường còn nợ là 270.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi. Ông Đ xác định số tiền phường
do bà T tham gia, không liên quan gì đến ông B nên ông Đ chỉ yêu cầu bà T phải có trách
nhiệm trả lại cho ông và bà D, không yêu cầu gì đối với ông B . Bà D và ông Đ cùng thống
nhất bà D giao toàn quyền cho ông Đ khởi kiện đối với tiền Phường.
Theo bản tự khai ngày 18/12/2024, 29/4/2025 bị đơn, bà Trương Thị T
trình bày: Bà T và vợ chồng ông Đ , bà D là hàng xóm với nhau. Từ năm 2015,
2016, bà có vay tiền của bà D nhiều lần, mỗi lần vay 5.000.000đồng, 10.000.000đồng, khi
vài chục triệu đồng. Tổng số tiền là 150.000.000đồng. Bà D có ghi vào sổ của bà D, lãi suất
4
3.000đồng/ngày/1.000.000đồng. Bà trả tiền lãi cho bà D hàng tháng, nhưng chưa trả tiền
vốn. Ngày 30/12/2018 (âm lịch), do công việc làm ăn khó khăn, không trả được tiền lãi cho
bà D nên giữa bà và bà D ngồi lại tính toán và thống nhất bà còn nợ bà D số tiền vốn là
150.000.000đồng và 120.000.000đồng tiền lãi. Tổng số tiền nợ là 270.000.000đồng. Bà có
viết cho bà D một tờ giấy nợ ngày 30/12/2018 nhưng trong giấy nhận nợ bà D yêu cầu bà
viết nội D là nợ tổng tiền họ nhằm để tránh việc bà D cho vay lãi ngày. Sau khi chốt nợ với
bà D. Khoảng đầu năm 2019, do dịch covic, kinh tế khó khăn, không thể tiếp tục trả tiền lãi
cho bà D nên bà D có chốt tiền lãi hơn 01 tháng số tiền 30.000.000đồng cộng với số tiền
270.000.000 đồng thành số tiền 300.000.000đồng. Bà T có viết giấy nhận nợ số tiền
300.000.000đồng, không nhớ ngày tháng năm. Ggiấy nợ do bà D giữ, bà D có nói là tính lãi
theo lãi suất ngân hàng 1%/tháng. Bà T trả lãi hàng quý từ năm 2019 cho đến 2023 nhưng
không trả đều, vẫn còn nợ lại bà D tiền lãi nhưng không nhớ còn nợ bao nhiêu. Tháng
12/2023 (âm lịch), bà D, ông Đ có thưa vợ chồng bà ra Công an xã Nguyên Giáp. Tháng
02/2024 (dương lịch), Tại trụ sở Công an xã Nguyên Giáp vợ chồng bà và vợ chồng bà D
thống nhất xác nhận bà và ông B còn nợ lại vợ chồng bà D số tiền vốn và lãi là
350.000.000đồng. Ngay trong ngày 08/02/2024, vợ chồng bà có trả cho vợ chồng ông Đ ,
bà D 300.000.000đồng, còn nợ lại 50.000.000đồng, hẹn đến tháng 10/2024 (âm lịch) trả dứt.
Sau lần chốt nợ tại Công an xã, vợ chồng bà T không còn nợ bà D khoản tiền nào khác. Đối
với giấy nhận nợ phường ngày 30/12/2018, bà D không xuất trình tại Công an xã nên bà
nghĩ là đã chốt nợ với vợ chồng ông Đ xong nên bà cũng không trình bày cho Công an rõ
việc chốt nợ vay trong biên nhận ngày 30/12/2018. Công xã cũng không cho bà xem những
tài liệu, chứng cứ, biên nhận do bà D xuất trình nên bà không biết và không đề cập đến biên
nhận số tiền 270.000.000đồng.
Nay bà T không đồng ý trả số tiền 270.000.000đồng theo yêu cầu của ông
Đ vì số tiền này bà đã trả cho cho ông Đ và bà D vào ngày 28/12/2023 âm lịch, tại trụ sở
Công an xã Nguyên Giáp. Bà không có tham gia họ, phường nên không có nợ tiền phường
như lời trình bày của ông Đ , bà D.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Huy B trình bày: Ông thống nhất
lời trình bày của bà T, xác nhận 270.000.000đồng là tiền vay, đã được các bên giải quyết
theo biên bản ngày 08/02/2024. Bà T không có tham gia phường, hụi của ông Đ , bà D và
ông không liên quan đến tiền hụi, phường theo yêu cầu của ông Đ , bà D.
Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên nội D ý kiến trình bày, bị đơn và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giữ nguyên quan điểm trình bày. Người
làm chứng là bà Kín, ông Sạn, anh Đại khai nhận là những người làm thuê cho
bà T vào khoảng năm 2014 – 2018, khi bà T còn kinh doanh quán Karaoke và
Bida. Thời gian này bà K, ông S, anh Đ có nghe bà T nói là bà T có vay tiền của
bà D nên bà T chưa kịp trả lương cho bà K, anh Đ, ông S vì phải gom tiền đóng
tiền lãi cho bà D. Bà Sáng, bà T1 khai nhận bà T có vài lần vay tiền của bà Sáng
và bà Tưởng nói là đóng tiền lãi cho bà D, bà Sáng và bà T1 không biết việc bà
T tham gia họ, phường của bà D hay không. Bà Tưởng xác nhận bà Tưởng có
biết bà D là người cho vay lãi ở địa phương. Đối với bà V, bà Ngọc A khai nhận
có tham gia họ của ông Đ , bà D phường 90, mở tháng 10/2017, kết thúc tháng
12/2018, nhưng không nhớ và không biết mặt hết những người tham gia, sổ ghi

5
danh sách phường, họ viên do bà D ghi để theo dõi, việc nộp tiền và nhận tiền chỉ
giao dịch bằng lời nói, không có ký nhận, cũng không có họp phường viên và
cũng không biết việc bà T có tham gia phường hay không. Bà Vân khai nhận bà
có nghe bà D nói là bà D chuyển phần phường của bà cho bà T nhưng bà không
đồng ý, bà không có chuyển giao phần phường của bà cho bà T, trường hợp bà D
tự ý chuyển giao thì bà D chịu trách nhiệm. Đến nay, bà D có xác nhận còn nợ bà
Vân tiền phường là 90.000.000đồng chưa trả. Phần này bà và bà D giải quyết với
nhau, trường hợp không giải quyết được thì bà sse4 khởi kiện bằng một vụ án
khác. Bà Ngọc Anh xác nhận tại buổi làm việc ngày 08/2/2024, bà có chứng kiến
việc ông Đ , bà D và ông B , bà T chốt nợ vay, bà T có viết biên bản và trả cho
ông Đ , bà D 300.000.000đồng, còn nợ 50.000.000đồng thì trả cho bà. Các bên
không đề cập gì đến tiền phường và số tiền 50.000.000đồng, bà không đề nghị
Tòa án giải quyết. Bà có chứng kiến việc các bên giải quyết nợ vay ở Công an xã
Nguyên Giáp.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm
Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã
chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và việc chấp hành pháp luật
của các đương sự. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ:
khoản 3 Đ 26, điểm a khoản 1 Đ 35, điểm a khoản 1 Đ 39, Đ 147; Đ 271
và Đ 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Các Đ 357, 471 và 468 Bộ luật Dân sự
2015; Các Đ 8, 17, 30 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27-11-2006 của Chính
phủ về họ, hụi, biêu, phường; Đ 27 Nghị định 19/2019/NĐ – CP ngày
19/02/2019 của Chính Phủ quy định về hụi, họ, biêu, phường; Khoản 2 Đ 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho ông
Đ , bà D số tiền 270.000.000đồng và bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo
quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công
khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét
đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của đương sự, Hội đồng
xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, các
tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xác định tranh chấp giữa các đương
sự là “Tranh chấp hụi họ biêu phường”, bị đơn có địa chỉ tại xã Nguyên Giáp,
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a
khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội Dung: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền họ còn
nợ là 270.000.000đồng (hai trăm bảy mươi triệu đồng) theo giấy xác nhận nợ tiền
6
họ ngày 30/12/2018 (âm lịch). Bị đơn không thống nhất yêu cầu của nguyên đơn
vì bị đơn không có tham gia phường, số tiền 270.000.000đồng bị đơn viết theo
giấy xác nhận nợ tiền họ ngày 30/12/2018 là khoản tiền bị đơn vay, số tiền này
bị đơn đã trả cho nguyên đơn vào ngày 08/02/2024, theo biên bản làm việc ghi
nhận tại Công an xã Nguyên Giáp.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Ngoài
giấy xác nhận nợ tiền họ ngày 30/12/2018, nguyên đơn còn xuất trình sổ theo dõi
họ, phường, xác nhận của những người tham gia phường. Qua đó thể hiện, có
danh sách phường viên tại các phường 90, 36, 30, 24 được ghi nhận ngày mở,
ngày kết thúc, những người tham gia. Nguyên đơn xác nhận “tên T” được ghi
nhận là bà T trong các phường, họ là bà Trương Thị T. Bị đơn cho rằng việc tham
gia phường phải có danh sách người tham gia, theo dõi việc nhận phường, ký
nhận tiền phường, biên bản họp phường viên hàng tháng. Tuy nhiên, qua lời trình
bày của các phường viên tham gia phường do ông Đ , bà D làm chủ đều thừa
nhận việc theo dõi tiền phường là do chủ phường lập sổ, khi nộp và nhận tiền
phường không có làm biên bản giao nhận tiền vì chủ yếu là tin tưởng nhau. Lời
trình bày này phù hợp với lời khai của nguyên đơn, nội D thể hiện trên sổ họ do
nguyên đơn cung cấp và phù hợp với lời khai của những người làm chứng, có
tham gia phường của bà D, ông Đ vào thời điểm bấy giờ.
[4] Xét lời trình bày của bị đơn cho rằng số tiền 270.000.000đồng theo giấy
xác nhận nợ tiền họ là tiên vay và tiền lãi, cụ thể tiền vốn vay là 150.000.000đồng
và 120.000.000đồng tiền lãi vào ngày 30/12/2018 và đến đầu năm 2019 tính, bà D
tính thêm lãi suất là 30.000.000đồng, thành số tiền vay 300.000.000đồng. Số tiền
này đã được giải quyết ngày 08/02/2024 nhưng bị đơn không đưa ra được tài liệu,
chứng cứ để chứng minh số tiền trên xuất phát từ hợp đồng vay tiền ngày tháng
năm nào, số tiền là bao nhiêu. Mặt khác, nguyên đơn không thừa nhận vì cho rằng
khoản tiền vay được chốt theo các biên nhận tiền vay ngày 24/6/2015, giấy vay tiền
ngày 21/11/2015 (dương lịch); hợp đồng vay vốn tư nhân ngày 17/01/2017; hợp đồng vay
vốn tư nhân ngày 20/01/2017; Tổng vay năm 2018 là 250.000.000đồng và chuyển từ nợ
của bà L 50.000.000đồng. Ngày 01/01/2019 (dương lịch) chốt tổng tiền vay là
300.000.000đồng, biên nhận nợ và ngày 10/3/2020, các bên tiếp tục chốt số tiền vay là
300.000.000đồng (ghi nhận lại tiền vay theo biên nhận nợ năm 2019). Số tiền này không liên
quan đến số tiền nợ họ 270.000.000đồng. Đồng thời, số tiền 300.000.000 vay, bị đơn ký nợ
vào ngày 01/01/2019 dương lịch, trước khi đã chốt nợ tiền phường ngày 30/12/2018 âm lịch
(nhằm ngày 04/02/2019). Xét lời trình bày của nguyên đơn phù hợp với các tài liệu chứng
cứ là các biên nhận vay tiền do mà nguyên đơn cung cấp, đã được bị đơn thừa nhận, việc
vay tiền giữa các bên thể hiện trong hợp đồng được ghi nhận cụ thể là quan hệ vay tiền. Mặt
khác, tại biên bản làm việc ngày 08/02/2024, bị đơn cũng xác nhận có vay tiền của nguyên
đơn vào tháng 01/2019, số tiền 300.000.000đồng, không đề cập đến tiền phường. Do đó, lời
trình bày của nguyên đơn xác nhận ngày 08/02/2024, giữa nguyên đơn, bị đơn giải quyết
khoản tiền vay là phù hợp.
[5] Xét giấy xác nhận nợ tiền họ ngày 30/12/2018 (âm lịch) do nguyên đơn xuất trình:
Tại phiên tòa, bị đơn thừa nhận bị đơn viết và ký tên, thời điểm viết, bị đơn có đầy đủ năng

7
lực trách nhiệm dân sự, đủ nhận thức để biết rằng viết nội D nợ tiền họ là xác lập một quan
hệ khác với quan hệ vay tiền trước đó đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn. Như vậy, nếu
giữa bị đơn và nguyên đơn không có mối quan hệ tham gia họ, phường thì không có căn cứ
để bị đơn viết giấy xác nhận nợ tiền họ ngày 30/12/2018 như trên. Trong quá trình giải quyết
vụ án và tại phiên tòa, bị đơn cũng không đưa ra được chứng cứ để chứng minh việc ký biên
nhận nợ tiền phường có sự ép buộc hay có sự đe dọa của nguyên đơn tại thời điểm viết, cũng
không đưa ra được chứng cứ đối trọng để chứng minh số tiền họ là số tiền vay. Đồng thời,
nguyên đơn xác định số tiền này không liên quan đến ông Trần Huy B và không yêu cầu
ông B . Tại phiên tòa, ông B xác định ông không liên quan đến tiền phường là phù hợp. Tuy
nhiên ông B trình bày là khoản tiền vay và cho rằng bà T không có tham gia phường là chưa
phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như đã phân tích trên.
[6] Như vậy, có cơ sở xác định bị đơn còn nợ nguyên đơn tổng số tiền họ là
270.000.000đồng theo giấy nhận nợ họ ngày 30/12/2018 (âm lịch). Số tiền này chưa được
giải quyết tại biên bản làm việc ngày 08/02/2024 nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả
cho vợ chồng nguyên đơn số tiền họ còn nợ là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp
luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về tiền lãi: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không phải giải
quyết.
[8] Xét đối với khoản tiền vay là 50.000.000đồng, đương sự thống nhất không yêu
cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không phải giải quyết.
[9] Về án phí: Do nguyên đơn được chấp nhận yêu cầu nên bị đơn phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Đ 147 của Bộ luật tố tụng dân sự
và Đ 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về…..án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Đ 26, điểm a khoản 1 Đ 35, điểm a khoản 1 Đ 39, Đ
147; Đ 271 và Đ 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Các Đ 357, 471 và 468 Bộ
luật Dân sự 2015; Đ 8, 17, 30 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của
Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Đ 27 Nghị định 19/2019/NĐ – CP ngày
19/02/2019 của Chính Phủ quy định về hụi họ biêu phường; Khoản 2 Đ 26 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, …. và sử dụng án phí.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Đ .
Buộc bà Trương Thị T phải trả cho ông Võ Văn Đ và bà Hoàng Thị D số
tiền họ còn nợ là 270.000.000đồng (hai trăm bảy mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề
nghị thi hành án, người phải thi hành án không tự nguyện thi hành những khoản
tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
8
Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại Điều 357 và
Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Trương Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 13.500.000đồng (Mười
ba triệu năm trăm nghìn đồng).
3. Về quyền kháng cáo của đương sự: Các đương sự có quyền kháng cáo
bản án dân sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành
án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi
hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND huyện Tứ Kỳ;
- Chi cục THADS huyện Tứ Kỳ;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Phạm Mỹ Như
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Bản án số 377/2025/DS-PT ngày 28/07/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Bản án số 260/2025/DS-PT ngày 22/07/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 16/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 14/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm