Bản án số 04/2025/DS-ST ngày 21/04/2025 của TAND huyện la Pa, tỉnh Gia Lai về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 04/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 04/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 04/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 04/2025/DS-ST ngày 21/04/2025 của TAND huyện la Pa, tỉnh Gia Lai về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện la Pa (TAND tỉnh Gia Lai) |
| Số hiệu: | 04/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 21/04/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN IA PA
TỈNH GIA LAI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 04/2025/DS-ST
Ngày 21/4/2025
V/v: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN IA PA - TỈNH GIA LAI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Văn Thắng
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Võ Thị Thu Thuỷ
2. Ông Nay Phen
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Văn Quang – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Ia
Pa, tỉnh Gia Lai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai tham gia
phiên tòa: Bà Hoàng Thị Kim Trâm -Kiểm sát viên.
Trong ngày 21 tháng 4 năm 2025, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân
huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
84/2024/TLST-DS, ngày 25 tháng 10 năm 2024, về việc: Tranh chấp hợp đồng
vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2025/QĐXX-ST, ngày 26
tháng 02 năm 2025; Quyết định hoãn phiên toà số 02/2025/QĐST-DS ngày 26
tháng 03 năm 2025 và Quyết định hoãn phiên toà số 03/2025/QĐST-DS ngày 11
tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị L, sinh năm 1969; Địa chỉ: Thôn A, xã Ia M, huyện
I, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Phạm Thị Kim L, sinh năm 1975; Địa chỉ: Thôn Plơi K, xã Ia
K, huyện I, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Phạm Thanh T, tên
thường gọi: Tý, sinh năm 1975. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Q, xã Ia T,
huyện I, tỉnh Gia Lai; Nơi ở hiện nay: Thôn Plơi K, xã Ia K, huyện I, tỉnh Gia Lai.
Vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
1. Tại đơn khởi kiện ngày 10/10/2024, các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị L trình bày:
Từ năm 2013 đến nay giữa bà và bà Phạm Thị Kim L (sau đây gọi là bà
Kim L) có quan hệ làm ăn, mua bán mì và vay mượn tiền với nhau, cụ thể: Bà
nhiều lần cho bà Kim L vay tiền, với số tiền từ 70 triệu đồng đến 500 triệu đồng
để lấy vốn làm ăn, buôn bán. Khi vay tiền của bà thì bà Kim L hứa sau khi thu
mua gom được mì của người dân trên địa bàn huyện thì sẽ bán lại cho bà theo
đúng giá thị trường. Việc thoả thuận làm ăn, mua bán mì nêu trên chỉ nói miệng,
không có văn bản, giấy tờ gì, cũng không có người làm chứng. Việc mua bán mì
qua các năm giữa bà và bà Kim L được thực hiện theo đúng giá thị trường và đã
hoàn tất theo nguyên tắc “thuận mua, vừa bán, giá lên thì mua lên, giá xuống thì
mua xuống”, không có việc bà mua giá thấp hay ép giá mì như bà Kim L trình
bày. Khi mua mì của bà Kim L thì bà đã trả tiền sòng phẳng, đầy đủ, không có nợ
nần gì, hai bên cũng không xảy ra tranh chấp gì với nhau. Về việc trả nợ tiền vay
của bà Kim L thì mấy năm đầu cũng sòng phẳng và đầy đủ, cuối vụ mì hằng năm
bà Kim L đều thanh toán trả tiền gốc và tiền lãi đầy đủ theo đúng thoả thuận. Về
giấy tờ vay mượn tiền và trả tiền thì sau khi bà Kim L thanh toán hết số tiền gốc
và lãi đã vay theo từng năm thì cả hai thống nhất huỷ bỏ các giấy tờ vay mượn tiền
này đi. Bà Lê Thị L cũng xác nhận trong việc làm ăn, mua bán mì và vay mượn
tiền giữa bà và bà Kim L thì ông Phạm Thanh T là chồng bà Kim L không biết và
không tham gia.
Vào năm 2016 bà có cho bà Kim L vay số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm
triệu đồng) để lấy vốn mở rộng làm ăn, mua bán mì, tuy nhiên từ khi vay cho đến
nay bà Kim L mới trả được số tiền gốc là 150.000.000 đồng và tiền lãi tính đến hết
tháng 02 năm 2024 sau đó thì không trả nữa, mặc dù bà đã đi đòi nhiều lần. Ngày
01/3/2024 bà Kim L tự viết Giấy vay tiền xác nhận có vay của bà số tiền
350.00.000 đồng, đây là số tiền gốc bà Kim L còn nợ và hẹn đến tháng 06 âm lịch
năm 2024 sẽ trả, lãi suất hai bên thoả thuận là 1,5%/tháng nhưng sau đó bà Kim L
vẫn không thực hiện nên bà đã làm đơn khởi kiện.
Về số tiền mua mì còn nợ: Từ tháng 4 năm 2024 đến nay giữa bà và bà Kim
L không còn quan hệ làm ăn, mua bán mì với nhau nữa. Do bà Kim L chây ì,
không chịu trả số tiền vay còn nợ nên bà Lê Thị L xác nhận hiện còn đang giữ của
bà Kim L số tiền mua mì chưa thanh toán là 22.960.000 đồng. Mục đích bà giữ lại
số tiền trên là để cấn trừ vào số tiền 25.000.000 đồng ông Phạm Thanh T là chồng
bà Kim L còn nợ bà. Tuy nhiên, bà Kim L không đồng ý việc cấn trừ nợ cho ông
T thì bà cũng đồng ý trả lại số tiền 22.960.000 đồng cho bà Kim L nhưng phải
được cấn trừ vào số tiền nợ gốc bà Kim L còn nợ bà là 350.000.000 đồng.
Tại phiên toà, bà Lê Thị L yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà Phạm Thị
Kim L phải trả số tiền còn nợ là 350.000.000 đồng và tiền lãi với mức lãi suất hai
bên thoả thuận là 1,5%/tháng, tính từ ngày 01/03/2024 cho đến ngày xét xử sơ
3
thẩm (ngày 21/4/2025) là 01 năm 01 tháng 20 ngày, với số tiền lãi là 71.750.000
đồng. Ngoài ra bà L không có ý kiến và yêu cầu gì thêm.
2. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 18/12/2024, lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án và tại phiên toà bị đơn bà Phạm Thị Kim L trình bày:
Bà Phạm Thị Kim L thừa nhận từ năm 2013 đến năm 2024 giữa bà và bà Lê
Thị L có quan hệ mua bán mì và vay mượn tiền với nhau, cụ thể trong quan hệ
làm ăn này thì bà Kim L là người trực tiếp đầu tư cho người dân, sau đó thu mua
gom mì của người dân để bán lại cho bà Lê Thị L theo giá thị trường. Bà Lê Thị L
tự nguyện đem tiền đến nhà cho bà vay số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm triệu
đồng) để bà có thêm nguồn vốn đầu tư cho người dân. Khi vay tiền hai bên không
thỏa thuận thời hạn trả nợ gốc, còn lãi suất hai bên thỏa thuận với nhau là
1,5%/tháng; hai bên cam kết, bà có mì thì phải bán cho bà Lê Thị L không được
bán ra bên ngoài, còn bà Lê Thị L cam kết phải thu mua mì của bà theo đúng giá
thị trường, không được mua thấp hơn, ai sai thì phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật. Việc thoả thuận làm ăn, mua bán nêu trên chỉ nói miệng, không có văn bản,
giấy tờ gì, cũng không có người làm chứng. Tuy nhiên, việc mua bán mì diễn ra
không đúng cam kết, cụ thể từ năm 2016 đến năm 2024 bà Lê Thị L đều mua mì
của bà không đúng giá thị trường (mua thấp hơn, ví dụ: giá thị trường 5.200
đồng/1kg thì bà L chỉ mua của bà với giá 5.000 đồng/1kg). Do đó, từ ngày
02/4/2024 đến nay hai bên không còn làm ăn, mua bán mì với nhau nữa vì bà Liên
cắt giá thu mua mì của bà nên bà không còn bán mì cho bà L nữa. Hiện bà L còn
nợ tiền mua mì của bà nhưng bà không tự tính toán và không xác định được bà L
còn nợ cụ thể bao nhiêu, số tiền 22.960.000 đồng là do bà L tự tính toán, bà không
biết và không đồng ý với số tiền này. Bà không đồng ý với ý kiến của bà L về việc
khấu trừ tiền mua mì còn nợ vào số tiền ông Phạm Thanh T đã vay của bà L bởi vì
việc ông T có quan hệ vay mượn tiền, nợ nần bà L thế nào thì bà không biết,
không tham gia.
Về số tiền 500.000.000 đồng bà L đã tự nguyện đem đến nhà cho bà vay thì
bà xác nhận đã trả được 150.000.000 đồng tiền gốc và đã trả lãi đầy đủ tính đến
hết tháng 02 năm 2024. Bà Phạm Thị Kim L thừa nhận vào ngày 01/3/2024 bà có
viết Giấy vay tiền và ký xác nhận có vay của bà Lê Thị L số tiền 350.000.000
đồng, đây là số tiền gốc bà còn nợ, lãi suất hai bên thỏa thuận là 1,5%/tháng và
hẹn đến tháng 6 âm lịch năm 2024 sẽ trả tiền cho bà L nên bà không có ý kiến gì,
cũng không yêu cầu giám định gì trong tờ giấy vay tiền này.
Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị L về việc yêu cầu bà phải trả số
tiền còn nợ là 350.000.000 đồng và tiền lãi với mức lãi suất 1,5%/tháng, tính từ
ngày 01/03/2024 cho đến ngày xét xử sơ thẩm thì bà không đồng ý, bà yêu cầu bà
L phải tự tính toán lại giá mì đã thu mua của bà từ năm 2016 cho đến nay theo
đúng giá thị trường cho rõ ràng thì bà sẽ trả đủ số tiền gốc và lãi nêu trên cho bà
Lê Thị L. Ngoài ra bà không có ý kiến và yêu cầu gì thêm.
4
3. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 20/01/2025 người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án ông Phạm Thanh T trình bày:
Ông Phạm Thanh T và bà Phạm Thị Kim L sống chung với nhau như vợ
chồng, không đăng ký kết hôn. Ông T có quen biết bà Lê Thị L vì có vay tiền của
bà L. Từ năm 2008 đến nay giữa ông T và bà Kim L xảy ra mâu thuẫn, sống ly
thân với nhau nên vợ chồng ăn riêng, tự làm và quản lý kinh tế riêng, việc bà Kim
L có quan hệ làm ăn, mua bán mì và vay mượn tiền của bà Lê Thị L như thế nào
thì ông T không biết, cũng không tham gia, đây là việc làm ăn riêng, nợ nần riêng
của bà Kim L, không có liên quan gì đến ông T.
Bản thân ông T cũng có quan hệ làm ăn, mua bán mì với bà Lê Thị L và có
vay của bà L số tiền 50.000.000 đồng. Hiện đã trả được 25.000.000 đồng, còn nợ
25.000.000 đồng, ông T xác định đây là khoản nợ riêng của ông, không có liên
quan gì đến bà Kim L, do đó nếu bà Lê Thị L có yêu cầu ông trả lại số tiền nêu
trên thì ông T cũng đồng ý. Việc ông T có quan hệ làm ăn, vay mượn tiền của bà
Lê Thị L thì bà Kim L cũng không biết và không tham gia.
Trong vụ án này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án ông Phạm Thanh T không có ý kiến và yêu cầu gì.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn không đồng ý trả
nợ theo yêu cầu của nguyên đơn; các đương sự không thống nhất được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai phát biểu ý
kiến:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến phiên tòa được thực hiện đầy
đủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ
án các đương sự đã chấp hành và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy
định của pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị L, buộc bị đơn bà Phạm Thị Kim L phải
trả cho bà Lê Thị L tổng số tiền 421.750.000 đồng, trong đó: nợ gốc là
350.000.000 đồng và tiền lãi với mức lãi suất 1,5%/tháng, tính từ ngày 01/03/2024
cho đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 21/4/2025) là 01 năm 01 tháng 20 ngày là
71.750.000 đồng.
Về án phí: Buộc bị đơn bà Phạm Thị Kim L phải chịu toàn bộ án phí dân sự
sơ thẩm theo quy định của pháp luật; hoàn trả lại cho nguyên đơn bà Lê Thị L số
tiền tạm ứng án phí đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem
xét tại phiên toà, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Nguyên đơn bà Lê Thị L khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Phạm Thị Kim L có
địa chỉ tại Thôn Plơi K, xã Ia K, huyện Ia, tỉnh Gia Lai phải trả số tiền vay là
350.000.000 đồng và tiền lãi với mức lãi suất 1,5%/tháng, tính từ ngày 01/03/2024
cho đến ngày xét xử sơ thẩm nên quan hệ pháp luật của vụ án là tranh chấp hợp
đồng vay tài sản, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ia
Pa, tỉnh Gia Lai theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và
điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng:
Quá trình giải quyết vụ án, xét thấy việc giải quyết vụ án có liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của ông Phạm Thanh T. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Ia Pa
đã có thông báo và đưa ông T vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là
“Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” là đúng quy định tại khoản 4
Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về việc triệu tập và xét xử vắng mặt đương sự:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Phạm Thanh T đã
được Tòa án nhiều lần triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt
không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó căn cứ Điều 227
và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng
mặt ông T là đúng quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà các đương sự đều
thừa nhận: Vào ngày 01/3/2024 bà Phạm Thị Kim L viết Giấy vay tiền, vay của bà
Lê Thị L số tiền 350.000.000 đồng, thời hạn trả nợ đến tháng 6 âm lịch năm 2024,
lãi suất hai bên thỏa thuận là 1,5%/tháng nhưng không ghi vào giấy vay tiền. Xét
thấy, việc các đương sự thừa nhận về các nội dung, sự việc nêu trên là phù hợp với
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, do đó đây là những tình tiết, sự kiện
không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2.2] Xét yêu cầu trả tiền nợ gốc của nguyên đơn: Tại Giấy vay tiền ngày 01
tháng 3 năm 2024 có nội thể hiện: Bà Phạm Thị Kim L có vay của bà Lê Thị L số
tiền 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng), thời hạn trả nợ đến tháng 6
âm lịch năm 2024, giấy vay tiền có chữ ký xác nhận của bên mượn tiền là bà
Phạm Thị Kim L. Quá trình giải quyết vụ án bà Kim L cũng thừa nhận có vay của
bà L số tiền nêu trên là đúng sự thật, mục đích vay tiền là để lấy vốn làm ăn, buôn
bán. Do đó HĐXX có đủ căn cứ xác định bị đơn bà Phạm Thị Kim L có vay của
bà Lê Thị L số tiền 350.000.000 đồng theo như Giấy vay tiền ngày 01/3/2024 là
đúng sự thật. Xét thấy, giao dịch vay tài sản được xác lập giữa bà Lê Thị L và bà
6
Phạm Thị Kim L là hoàn toàn tự nguyện, hình thức, mục đích và nội dung của
giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, phù
hợp với quy định tại các Điều 116, 117, 118, 119 và 463 của BLDS năm 2015 nên
có hiệu lực làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa các bên.
Tại Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nghĩa
vụ trả nợ của bên vay như sau: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền
khi đến hạn,…trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Tại Giấy vay tiền ngày
01/3/2024 bà Kim L hẹn đến tháng 06 âm lịch năm 2024 sẽ trả, tuy nhiên đến hạn
trả nợ bà Lê Thị L đã đi đòi nhiều lần nhưng bà Phạm Thị Kim L không thực hiện
là vi phạm nghĩa vụ trả nợ, hai bên cũng không có thoả thuận nào khác. Do đó, bà
Lê Thị L khởi kiện yêu cầu bà Phạm Thị Kim L phải trả số tiền 350.000.000 đồng
là có căn cứ để chấp nhận.
[2.3] Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn:
Bà Lê Thị L yêu cầu bà Phạm Thị Kim L phải trả tiền lãi theo mức lãi suất
hai bên đã thoả thuận là 1,5%/tháng trên số tiền nợ gốc đã vay là 350.000.000
đồng, thời gian tính lãi tính từ khi viết Giấy vay tiền ngày 01/03/2024 cho đến
ngày xét xử sơ thẩm (ngày 21/4/2025) là 01 năm 01 tháng 20 ngày, ngoài yêu cầu
tính lãi theo thoả thuận nêu trên nguyên đơn không có yêu cầu gì thêm. Xét thấy,
tại Giấy vay tiền ngày 01/03/2024 không có nội dung thoả thuận về lãi suất, tuy
nhiên trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà sơ thẩm cả nguyên đơn và
bị đơn đều thừa nhận mức lãi suất hai bên đã thoả thuận với nhau là 1,5%/tháng
nhưng không ghi vào giấy vay tiền; quá trình giải quyết vụ án các đương sự cũng
không có tranh chấp với nhau về mức lãi suất đã thoả thuận trong quá trình vay tài
sản. Do đó, HĐXX có căn cứ xác định hợp đồng vay tài sản giữa các đương sự đã
xác lập với nhau là hợp đồng vay có kỳ hạn và có thoả thuận về lãi suất.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 được
hướng dẫn tại khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm, quy định nghĩa vụ trả lãi của bên
vay như sau: “Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả
không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau: a) Lãi trên nợ gốc trong hạn chưa
trả theo lãi suất thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản
1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời hạn vay chưa trả lãi
trên nợ gốc tại thời điểm xác lập hợp đồng; Trường hợp chậm trả lãi trên nợ gốc
trong hạn thì còn phải trả lãi trên nợ lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 của Bộ luật này; b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất
vay do các bên thoả thuận trong hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác”.
Tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về lãi suất như sau:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi
suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền
7
vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác…. Trường hợp lãi suất
theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi
suất vượt quá không có hiệu lực. 2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả
lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được
xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời
điểm trả nợ”.
Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, HĐXX xét thấy nguyên đơn bà
Lê Thị L chỉ yêu cầu bị đơn bà Phạm Thị Kim L phải trả tiền lãi đối với số tiền
còn nợ là 350.000.000 đồng với mức lãi suất 1,5%/tháng, thời gian tính lãi từ ngày
01/3/2024 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 21/4/2025) là có căn cứ và phù hợp với
các quy định nêu trên nên được HĐXX chấp nhận.
Cụ thể số tiền lãi được tính từ ngày 01/3/2024 đến ngày xét xử sơ thẩm,
ngày 21/4/2025 là 01 năm 01 tháng 20 ngày, được xác định như sau:
350.000.000 đồng x 1,5%/tháng x (01 năm 01 tháng 20 ngày) = 71.750.000
đồng.
[2.4] Đối với ý kiến của nguyên đơn về việc khấu trừ số tiền mì vào số tiền
vay còn nợ: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà bà Lê Thị L xác nhận còn
nợ bà Kim L số tiền mua mì chưa thanh toán là 22.960.000 đồng. Bà Lê Thị L
đồng ý trả lại cho bà Kim L số tiền mì nêu trên nhưng phải được trừ vào số tiền bà
Kim L còn nợ là 350.000.000 đồng. Xét thấy, ý kiến của nguyên đơn về việc cấn
trừ số tiền mì vào số tiền vay là không có căn cứ để chấp nhận, bởi vì: Bị đơn bà
Phạm Thị Kim L cho rằng nguyên đơn còn nợ tiền mua mì nhưng không biết
chính xác còn nợ bao nhiêu, số tiền 22.960.000 đồng là do nguyên đơn tự tính
toán, bị đơn không biết và cũng không đồng ý với số tiền này. Việc vay mượn tiền
và việc làm ăn, mua bán mì giữa nguyên đơn và bị đơn là hai quan hệ hoàn toàn
khác nhau; việc đòi lại số tiền mì còn nợ là quyền của bà Phạm Thị Kim L, quá
trình giải quyết vụ án bị đơn bà Kim L không có yêu cầu phản tố đối với nguyên
đơn bà Lê Thị L yêu cầu phải trả lại số tiền mì còn nợ, cũng không có yêu cầu cấn
trừ tiền mì vào số tiền vay. Nếu sau này hai bên không thoả thuận được, có tranh
chấp và có yêu cầu thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
[2.5] Về trách nhiệm trả nợ: Căn cứ vào Giấy vay tiền ngày 01/3/2024 bà Lê
Thị L chỉ khởi kiện yêu cầu bà Phạm Thị Kim L phải trả nợ. Quá trình giải quyết
vụ án cả nguyên đơn và bị đơn đều xác định việc làm ăn, vay mượn tiền giữa
nguyên đơn và bị đơn thì ông Phạm Thanh T là chồng bà Kim L không biết và
không tham gia; bản thân bà Kim L cũng xác định đây là khoản nợ của riêng bà,
không liên quan gì đến ông T. Về phía ông T cũng không thừa nhận có liên quan
đến việc vay mượn tiền nêu trên. Các đương sự cũng không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ chứng minh việc bà Kim L vay tiền để sử dụng, làm ăn chung với
ông T hoặc sử dụng tiền vay để chi tiêu, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong gia
8
đình nên HĐXX không có căn cứ buộc ông Phạm Thanh T có trách nhiệm cùng bà
Phạm Thị Kim L phải trả nợ cho bà Lê Thị L.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị L. Buộc bị đơn bà
Phạm Thị Kim L phải trả cho bà Lê Thị L tổng số tiền 421.750.000 đồng, trong
đó: tiền nợ gốc là 350.000.000 đồng và tiền nợ lãi là 71.750.000 đồng.
[3] Đối với ý kiến của bị đơn bà Phạm Thị Kim L về việc yêu cầu bà Lê Thị
L phải tính toán lại giá thu mua mì của bà từ năm 2016 cho đến nay theo đúng giá
thị trường cho rõ ràng thì mới đồng ý trả nợ gốc và lãi cho bà Lê Thị L. Xét thấy,
ý kiến trình bày nêu trên của bà Kim L là không có căn cứ để chấp nhận bởi vì:
Việc vay mượn tiền và việc mua bán mì giữa bà Kim L và bà Lê Thị L là hai quan
hệ hoàn toàn khác nhau; bà Kim L cũng không cung cấp được giấy tờ, tài liệu,
chứng cứ chứng minh có sự thoả thuận, ràng buộc trách nhiệm trong việc làm ăn,
mua bán mì với bà Lê Thị L như bà đã trình bày. Việc mua bán mì giữa nguyên
đơn và bị đơn là quan hệ dân sự, được xác lập, thực hiện trên nguyên tắc tự
nguyện, tự định đoạt, trên tinh thần “thuận mua, vừa bán” theo đúng giá thị
trường. Theo nguyên tắc trên nếu bà Lê Thị L ép giá hay thu mua mì của bà Kim
L không đúng theo giá thị trường thì bà Kim L có quyền từ chối không có nghĩa
vụ phải bán mì cho bà Lê Thị L; bà Kim L cho rằng bị bà Lê Thị L ép giá, mua mì
của bà không đúng giá thị trường nhưng không có gì chứng minh, mặt khác việc
mua bán mì diễn ra từ năm 2016 cho đến nay đã xong và đã hoàn tất theo từng
năm, từ trước đến nay hai bên cũng không có tranh chấp gì về việc mua bán này.
[4] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Phạm
Thanh T. Quá trình giải quyết vụ án ông T xác nhận có vay bà Lê Thị L số tiền
50.000.000 đồng, hiện đã trả được 25.000.000 đồng, còn nợ 25.000.000 đồng. Ông
T xác định đây là khoản nợ riêng của ông T, không liên quan gì đến bà Kim L, nếu
bà Lê Thị L có yêu cầu trả lại số tiền nêu trên thì ông T cũng đồng ý. Xét thấy,
khoản vay của ông Toàn không có liên quan đến khoản vay của bà Kim L, bà Lê
Thị L cũng chưa có yêu cầu ông T phải trả lại số tiền còn nợ nên HĐXX không
xem xét giải quyết. Nếu sau này hai bên có tranh chấp và có yêu cầu sẽ được giải
quyết bằng vụ án khác.
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 BLTTDS và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Án phí dân sự sơ thẩm của vụ án là 20.870.000 đồng. Toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên bị đơn bà Phạm Thị Kim L phải
chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm 20.870.000 đồng.
Nguyên đơn bà Lê Thị L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả
lại cho bà Lê Thị L số tiền tạm ứng án phí đã nộp 19.337.500 đồng theo Biên lai
9
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003857 ngày 25/10/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Ia Pa.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ia Pa về việc
giải quyết vụ án là có căn cứ nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39, Điều 91, Điều 92, Điều 96, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235,
Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào Điều 116, Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điều 274, Điều 275,
Điều 280, Điều 351, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 của Bộ
luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày
11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị L đối với
bà Phạm Thị Kim L về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Buộc bà Phạm Thị Kim L phải trả cho bà Lê Thị L tổng số tiền 421.750.000
đồng (bốn trăm hai mươi mốt triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng), trong đó: tiền
nợ gốc là 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng) và tiền nợ lãi là
71.750.000 đồng (bảy mươi mốt triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí: Buộc bà Phạm Thị Kim L phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ
thẩm 20.870.000 đồng để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Hoàn trả lại cho bà Lê Thị L số tiền tạm ứng án phí đã nộp 19.337.500 đồng
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003857 ngày 25/10/2024 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ia Pa.
10
3. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án đến Tòa án
nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo đối với
đương sự có mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, đối với
đương sự vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản
án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Gia Lai;
- VKSND huyện Ia Pa;
- Các đương sự;
- Phòng GĐKT TAND tỉnh Gia Lai;
- Chi cục THADS huyện Ia Pa;
- Lưu HS/VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Văn Thắng
11
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Các Hội thẩm nhân dân Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa
Võ Thị Thu Thuỷ Nay Phen Lê Văn Thắng
12
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 08/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 03/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm