Bản án số 03/2025/DS-ST ngày 16/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 03/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 03/2025/DS-ST ngày 16/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 3 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình
Số hiệu: 03/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Công mua gỗ của Hùng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 3- NINH BÌNH
Bản án số: 03/2025/ DS - ST
Ngày 16/9/2025
V/v:Tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hoá.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 3- NINH BÌNH
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lâm Thị Thanh Nhàn.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Bùi Khắc Thái;
Bà Nguyễn Thị Phương Thiệu.
Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Bình - Thư Tòa án nhân dân khu
vực 3- Ninh Bình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 3- Ninh Bình tham gia phiên
toà: Bà Nguyễn Thu Hòa - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 15, ngày 16 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
khu vực 3 - Ninh nh xét xử thẩm công khaivụ án thụ lý số 33/2024/TLST-
DS ngày 11 tháng 10 năm 2024 về việc Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2025/QĐXXST- DS ngày 29
tháng 8 năm 2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Đinh Công H, sinh năm 1958; địa chỉ: Thôn C, P,
huyện N, tỉnh Ninh Bình (nay là Q, tỉnh Ninh Bình) (Có mặt tại phiên toà, vắng
mặt khi tuyên án).
Bđơn: Ông Văn C, sinh năm 1965; Địa chỉ: Thôn Q, P, huyện N,
tỉnh Ninh Bình (nay là phường T, tỉnh Ninh Bình) (Vắng mặt có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/5/2024, bản tự khai ngày 17/02/2025,
nguyên đơn ông Đinh Công H trình bày: Ông Đinh Công H và ông Vũ Văn C do
quen biết, tin tưởng nên ông H đã bán chịu gỗ keo cho ông Văn C. Ngày
15/8/2004, ông Công nợ ông H tiền mua gỗ keo 9.000.000 đồng, thỏa thuận
ông C phải trả lãi 1%/ tháng, hẹn trả gốc lãi ngày 11/12/2023 để ông C làm
vốn các xe tiếp theo phải trả ngay. Nay đã đến hạn trả, ông Văn C vẫn
không trả gốc và lãi cho ông H, vì vậy ông H làm đơn khởi
2
kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Văn C phải trả cho ông Đinh Công H số tiền
9.000.000 đồng thanh toán tiền lãi từ ngày 15/8/2004 đến ngày 15/5/2024 lãi
suất được tính theo quy định của ngân hàng 7%/ năm. 9.000.000 đồng x 0,58%/
tháng x 237 tháng = 12.600.000 đồng. Tổng số tiền ông Văn C phải trả cho
ông Đinh Công H số tiền 21.600.000 đồng (Hai mươi mốt triệu sáu trăm nghìn
đồng)
* Quá trình giải quyết vụ án ông Đinh Công H đã bản tkhai các đơn
đề nghị trình bày giải trình về khoản nợ nsau: Năm 2004 ông H bán chịu g
keo cho ông C và năm 2004 có cộng dồn vào 01 khoản nợ và khoản nợ này ông
C đã trả. Riêng chuyến keo ngày 15/8/2004, ông H bán cho ông C 9.000.000
đồng chuyển sang tiền vay phải trả lãi đến tận ngày 11/12/2023 ông C mới phải
trả nên năm 2004 ông H không đòi khoản nợ này (khoản tiền vay chưa đến hạn)
nhưng đến hạn thì ông C không trả gốc và lãi cho ông nên ông khởi kiện ra tòa án
nhân dân huyện Nho Quan (nay tòa án nhân dân khu vực 3- Ninh Bình).
Về thời hạn phải trả gốc và lãi là ngày 11/12/2023 trong giấy ghi nợ, ông C
ghi nợ theo thỏa thuận đôi bên nhất trí để đầy đủ theo thỏa thuận (phải trả lãi 2%/
tháng và phải trả gốc lãi vào 11/12/2023) là ông H ghi vào cho đầy đủ theo thỏa
thuận vào ngày 15/8/2004, sau đó ông Vũ Văn C ký nhận.
Đối với giấy vay nợ này, nếu trả rồi hoặc cộng dồn thì đã gạch chéo và hủy
giấy tờ nên không thể còn. Tuy nhiên, do giấy này chưa đến hạn trả nên ông H
chưa đòi.
Ngoài ra, ông H không yêu cẩu Tòa án giải quyết vấn đề nào khác.
Tại phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ tại phiên tòa ông Đinh
Công H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện:
Buộc ông Vũ Văn C phải trả cho ông Đinh Công H số tiền 9.000.000 đồng
thanh toán tiền lãi từ ngày 15/8/2004 đến ngày 15/9/2025, lãi suất được tính
theo quy định của ngân hàng 7%/ năm. 9.000.000đồng x 0,58%/ tháng x 253
tháng = 13.000.000 đồng (làm tròn). Tổng số tiền ông Vũ Văn C phải trả cho ông
Đinh Công H số tiền 22.000.000 đồng.
Tại bản tự khai, bị đơn ông Vũ Văn C trình bày:
Ngày 11/10/2024, ông Đinh Công H khởi kiện ông ra a án về việc
tranh chấp hợp đồng mua bán gỗ keo năm 2004 với số tiền 9.000.000 đồng yêu
cầu Tòa án: Buộc ông phải trả cho ông Đinh Công H số tiền 9.000.000 đồng
thanh toán tiền lãi từ ngày 15/8/2004 đến ngày 15/5/2024 lãi suất được tính theo
quy định của ngân hàng là 7%/ năm. 9.000.000đồng x 0,58%/ tháng x 237 tháng
= 12.600.000 đồng. Tổng số tiền ông C phải trả cho ông Đinh Công H số tiền
21.600.000 đồng là ông không đồng ý với yêu
cầu khởi kiện này của ông Đinh Công H. Đề nghị Tòa án nhân dân khu vực 3
3
Ninh Bình bác đơn khởi kiện của ông Đinh Công H với các lý do sau:
Năm 2012, ông Đinh Công H có khởi kiện ông ra Tòa án nhân dân huyện
Nho Quan về tranh chấp hợp đồng vay tài sản với số tiền 24.600.000 đồng bản
chất của khoản vay năm 2012 khởi kiện là số tiền mua bán gỗ cây keo của rất
nhiều lần với nhau giữa ông và ông H trong năm 2004. Sau nhiều lần mua bán g
keo thì cuối năm 2004 vào ngày 21/12/2004 ông H ông có chốt lại với nhau
một Giấy nhận nợ với tổng stiền còn nợ của cả năm 2004 24.600.000 đồng.
Khoản nợ này đã được Tòa án giải quyết ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự số 01 ngày 07/01/2013. Sau khi Quyết định, ông đã thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ trả nợ nhưng không biết tại sao năm 2024 ông Đinh Công H lại
khởi kiện ông ra tòa án nhân dân huyện Nho Quan để yêu cầu ông trả số tiền mua
gỗ keo lần mua ngày 15/8/2004.
Đối với Giấy mua bán ngày 15/8/2004 có thể hiện nội dung: “Ngày
15/8/2004 tôi Vũ Văn C, Q, Sơn H1 mua của anh H phố R 01 xe gỗ keo s
tiền 9.000.000 đồng chẵn còn nợ c”. Đây là chữ viết chữ ký của ông vì mỗi
lần mua gkeo của ông H thì ông và ông H đều ký nhận vào một tờ giấy mua bán
để thể hiện là lấy bao nhiêu và còn nợ bao nhiêu để sau hết năm đó sẽ chốt lại nợ
tổng số tiền của năm là bao nhiêu. Trong năm 2004, ông với ông H đã chốt công
nợ vào ngày 21/12/2004 nên mới có giấy nhận nợ ngày 21/12/2004.
Sau khi xem xét giấy mua bán ngày 15/8/2004 của ông H nộp tại Tòa án thì
ông mới biết do xuất khi chốt công nợ ngày 21/12/2004 ông đã không yêu
cầu ông H đưa lại toàn bộ giấy mua bán gỗ keo của những lần cụ thể trong năm
2004 nên dẫn đến ông H sau hơn19 năm đã khởi kiện ông với Giấy mua bán ngày
15/8/2004. Ông xin cam đoan giấy mua bán giữa ông và ông H ngày15/8/2004 đã
được ông ông H cộng lại chốt nợ vào ngày 21/12/2004 đã giải quyết xong
từ năm 2012- 2013 tại Tòa án nhân dân huyện Nho Quan.
Nội dung thứ 2 trong Giấy mua bán ngày 15/8/2004 ông không hiểu tại sao
lại có dòng chữ… phải trả lãi 2%/ tháng phải trả gốc lãi vào 11/12/2023. Đây
dòng chữ được viết thêm vào Giấy mua bán ngày 15/8/2004, chữ viết này không
phải chữ viết của ông mà chữ viết này của ông H tự viết thêm vào lúc nào
ông không biết. Bản chất của giấy mua bán này là khi lấy mỗi lần lấy keo ông và
ông H đều viết với nhau một tờ giấy mua bán để chốt lần lấy đó để cuối năm sẽ
cộng tổng số tiền còn nợ lại.
Với những do trên ông đề nghị Tòa án nhân dân khu vực 3- Ninh Bình
không chấp nhận đơn khởi kiện của ông H buộc ông phải trả nợ số tiền
9.000.000 đồng và số tiền lãi theo quy định. Nay ông làm bản tự khai này đề nghị
Tòa án xem xét cho ông. Đến thời điểm hiện tại, ông C không có yêu cầu phản t
4
đề nghị không tiến hành hòa giải do không tìm được tiếng nói chung đề nghị
giải quyết, xét xử vắng mặt ông.
Tại đơn xin xét xử vắng mặt ông Công trình B: Quá trình giải quyết vụ án
này ông đã ý kiến đầy đủ vquan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Tòa án
nhân dân khu vực 3- Ninh Bình không chấp nhận đơn khởi kiện của ông H buộc
ông phải trả nợ số tiền 9.000.000 đồng số tiền lãi theo quy định do ông H đã
đòi nợ ông khoản nợ này rồi. Nay do sức khỏe yếu tuổi cao phải thường
xuyên đi lại dẫn đến việc đi lại khó khăn không thể đến tòa án làm việc thường
xuyên được, vì vậy ông đề nghị Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt ông
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 3 Ninh Bình tham gia tố tụng
tại phiên tòa giải quyết vụ án sơ thẩm phát biểu ý kiến:
Thẩm phán, Hội đồng xét xThư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy
định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét
xử:
Căn cứ Điều 116, Điều 117, Điều 119, Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự
năm 2015; Điều 5, Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 273 Bộ luật TTDS; điểm
đ khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án. Đề nghị Tòa án nhân dân khu vực 3- Ninh Bình:
Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Đinh Công H về việc buộc ông
Văn C phải trả cho ông Đinh Công H số tiền 9.000.000 đồng thanh toán
tiền lãi từ ngày 15/8/2004 đến ngày 15/9/2025 13.000.000 đồng, tổng số tiền
22.000.000 đồng.
- Về án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn được miễn án phí theo quy định
pháp luật
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ ván đã được xem
xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát
viên Hội đồng xét xử nhận định các vấn đề phải giải quyết trong vụ án như sau:
[1] Về thẩm quyền và tố tụng:
Về thẩm quyền: Nguyên đơn ông Đinh Công H đã nộp đơn cùng các tài
liệu chứng cứ theo quy định. Đây vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
giữa nguyên đơn ông Đinh Công H bị đơn ông Văn C nơi cư trú tại thôn
Q, P, huyện N, tỉnh Ninh Bình (nay phường T, tỉnh Ninh Bình) theo quy
định tại khoản 3 Điều 26,
5
điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nho Quan,
tỉnh Ninh Bình (nay Toà án nhân dân khu vực 3- Ninh Bình).
Tại phiên tòa sơ thẩm: bị đơn ông Vũ Văn C vắng mặt có đơn yêu cầu xin
giải quyết, xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông
C là phù hợp khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[2] Về nội dung vụ án: Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên toà, ông
Đinh Công H yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa,
buộc ông Văn C phải trả cho ông Đinh Công H số tiền 9.000.000 đồng
thanh toán tiền lãi từ ngày 15/8/2004 đến ngày 26/8/2025, lãi suất được tính theo
quy định của ngân hàng là 7%/ năm. 9.000.000đồng x 0,58%/ tháng x 253 tháng
= 13.171.800 đồng (làm tròn thành 13.000.000 đồng). Tổng số tiền ông Vũ Văn
C phải trả cho ông Đinh Công H số tiền 22.000.000 đồng. Thì thấy:
Quá trình giải quyết ông Đinh Công H nộp cho Tòa án 01 tờ giấy viết tay
của ông Vũ Văn C đề ngày 15/8/2004 nội dung“Hôm nay ngày 15/8/2004 tôi
Văn C, Quỳnh P, Sơn H1 mua của anh H phố R 01 xe gỗ keo số tiền
9.000.000 đồng chẵn còn nợ cả: phải trả lãi 2%/ tháng phải trả gốc lãi vào
11/12/2023” và có chữ ký của ông Vũ Văn C.
Tại đơn đề nghị ngày 06/3/2025, ông Đinh Công H trình bày về thời hạn
phải trả gốc và lãi là ngày 11/12/2023 trong giấy ghi nợ là ông H ghi thêm phần (
phải trả i 2%/ tháng phải trả gốc lãi vào 11/12/2023)để đầy đủ sau đó ông
Vũ Văn C nhận.
Quá trình giải quyết, bị đơn ông Vũ Văn C thừa nhận giấy biên nhận ngày
15/8/2004 ông H nộp tại tòa án do chính tay ông C viết nhưng thực tế ông chỉ
viết đoạn nội dung “Hôm nay ngày 15/8/2004 tôi Văn C, Quỳnh P, Sơn H1
mua của anh H phố R 01 xe gỗ keo số tiền 9.000.000 đồng chẵn còn nợ cả”
và ông không viết, không thỏa thuận với ông H đoạn “phải trả lãi 2%/ tháng và
phải trả gốc lãi vào 11/12/2023”. Sau khi xem Giấy biên nhận ông mới biết ông
H vẫn còn giữ giấy mua bán này vì bản chất giấy biên nhận này chính là mỗi lần
mua gỗ keo thì ông C ông H đều ký nhận với nhau một tờ giấy mua bán để thể
hiện lấy bao nhiêu n nợ bao nhiêu để sau hết năm đó hai ông chốt lại nợ
tổng số tiền của năm là bao nhiêu. Năm 2004, ông với ông H đã chốt công nợ vào
ngày 21/12/2004 nên mới có giấy nhận nngày 21/12/2004 để ông H khởi kiện
ông vào năm 2012 tại Toà án nhân dân huyện Nho Quan.
Đối với Giấy biên nhận này do xuất tin tưởng khi chốt công nợ
ngày 21/12/2004, ông C đã không yêu cầu ông H đưa lại toàn bộ giấy mua bán gỗ
keo của những lần cụ thể trong năm 2004 nên dẫn đến ông H sau
19 năm đã khởi kiện ông với giấy mua bán này.
6
Như vậy, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của
nguyên đơn tại phiên toà, Hội đồng xét xử thấy: Giấy biên nhận ngày 15/8/2004,
ông H có bán cho ông C một xe gỗ keo với giá là 9.000.000 đồng và ông C n
nợ cả 9.000.000 đồng. Việc mua bán gỗ keo giữa ông H và ông C được thể hiện
bằng văn bản do ông C viết ngày 15/8/2004, có chữ chữ viết của ông C, ông
C và ông H đều thừa nhận đây là sự thực. Tuy nhiên lời khai của ông C và các tài
liệu chứng cứ của vụ án dân sự năm 2012 của Toà án nhân dân huyện Nho quan
đều thể hiện ông C ông H trong năm 2004 mua bán gỗ keo với nhau rất
nhiều lần, đến ngày 21/12/2004 ông C và ông H đã chốt với nhau công nợ và ông
C đã viết giấy biên nhận nợ thể hiện việc ông C còn nợ lại tổng số tiền
24.600.000 đồng. Điều này phù hợp với bản tự khai của chính ông Đinh Công H
khai năm 2012 tại Toà án nhân dân huyện Nho Quan trong vụ án dân sự. Trong
bản tự khai đoạn ông H viết Năm 2004 tôi có bán cho chú C gỗ keo đến này
21/12/2004 chú C còn nợ tồn đọng tổng số tiền là 24.600.000đ ”. Điều này càng
cho thấy việc mua bán gỗ keo của ông C và ông H diễn ra rất nhiều lần đã được
chốt cộng nợ vào ngày 21/12/2004 là phù hợp với lời khai của ông Công trình B
và phù hợp với toàn bộ tài liệu chứng cứ của vụ án dân sự năm 2012 đã được giải
quyết tại toà án. Vụ án đó sau khi khởi kiện ông C đã trả hết nợ cho ông H theo
quyết định thoả thuận số 01 ngày 07/01/2013 của Toà án nhân dân huyện Nho
Quan ban hành.
Tại phiên toà, ông Đinh Công H cũng thừa nhận tất cả những chuyến mua
bán gỗ keo trong năm 2004 giữa ông ông C chốt vào Giấy biên nhận nợ ngày
21/12/2004 nhưng riêng Giấy biên nhận ngày 15/8/2004 do thời hạn trả nợ vào
tận ngày 11/12/2023 nên ông tách ra không chốt vào cuối năm 2004. Tuy nhiên
nội dung thời hạn trả nợ vào năm 2023 thì ông C không thừa nhận nội dung
này, đây nội dung ông H ghi thêm o trong giấy biên nhận chứ bản thân ông
C không thoả thuận nào riêng chỉ duy nhất thoả thuận chốt công nvào cuối
năm 2004 điều này đã thể hiện bằng việc ông C đã chốt công nợ vào ngày
21/12/2004. Sự việc viết thêm này ông H ng thừa nhận ông H người viết
thêm đoạn “phải trả lãi 2%/ tháng và phải trả gốc lãi vào 11/12/2023” nhưng lại
khai được sự đồng ý của ông C. Sau khi xem xét thì Hội đồng xét xử thấy
rằng phần ghi thêm của ông H không phù hợp trong thực tế không ai thoả
thuận thời hạn trả nợ, đến gần 20 năm mới phải trả tiền gốc và lãi trong khi đó 20
năm ông H không yêu cầu ông C phải thanh toán bất kỳ khoản tiền lãi nào
không lời nói hay nhắc nhở ông C về khoản nợ này. Lời khai ông H cho rằng
việc thoả thuận về thời hạn trả gốc và lãi ngay lúc ông C viết giấy và sau
thoả thuận ông C vào thì thấy trong thực tế, lúc đó ông C người cầm bút viết
giấy nhận nợ chuyến xe keo đó, nếu có thoả thuận thêm ngay tại thời điểm ông C
viết tại sao ông C không phải là người viết tiếp mà lại là chữ viết của ông H. Thực
7
tế ông C không thừa nhận thoả thuận đó nên càng sở khẳng định ông H
đã tự ý viết thêm nội dung không sự thoả thuận với ông C lời khai này
của ông H không đúng và không cơ sở để chấp nhận đó là sự thật. Với thời
hạn gần 20 năm mới phải trả nợ thì càng thấy sự không hợp lý và không phù hợp
trong thực tế cuộc sống. Ông H ông C không quan hệ anh em họ hàng thân thiết
gì cả, chỉ là những người quen biết mua bán hàng hoá với nhau nên điều này càng
khẳng định lời khai của ông C đúng (Do xuất khi chốt công nợ ngày
21/12/2004 ông C đã không yêu cầu ông H đưa lại toàn bộ giấy mua bán gỗ keo
của những lần cụ thể trong năm 2004) phù hợp với toàn bộ tài liệu và chứng
có trong hồ sơ vụ án nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của ông H.
Căn cứ vào các chứng cứ và sự phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử không
chấp nhận đơn khởi kiện của ông Đinh Công H về việc “Tranh chấp hợp đồng
mua bán hàng hóa”. Buộc ông Văn C phải trả cho ông Đinh Công H số tiền
9.000.000 đồng và thanh toán tiền lãi từ ngày 15/8/2004 đến ngày 15/9/2025, lãi
suất được tính theo quy định của ngân hàng 7%/ năm. 9.000.000 đồng x 0,58%/
tháng x 253 tháng = 13.000.000 đồng (làm tròn). Tổng số tiền ông Vũ Văn C phải
trả cho ông Đinh Công H là 22.000.000 đồng
[5] Về án phí sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận
nên nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm nhưng theo quy định tại điểm đ, khoản
1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ông Đinh Công H thuộc trường
hợp người cao tuổi được miễn án phí.
[4] Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 116, Điều 117, Điều 119, Điều 430, Điều 440 Bộ luật Dân sự
năm 2015; khoản 1 Điều 147 Bộ luật TTDS năm 2015; khoản 3, Điều 26; điểm a
khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 227; Điều 273 Bộ luật
TTDS; điểm đ khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Công H về việc “Tranh
chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”: Buộc ông Vũ Văn C phải trả cho
ông Đinh Công H số tiền 9.000.000 đồng thanh toán tiền lãi từ ngày 15/8/2004
đến ngày 15/9/2025, lãi suất được tính theo quy định của ngân hàng là 7%/ năm.
9.000.000đồng x 0,58%/ tháng x 253 tháng = 13.000.000 (làm tròn) đồng. Tổng
số tiền ông Vũ Văn C phải trả cho ông Đinh Công H số tiền 22.000.000 đồng.
8
2. Án phí dân sự sơ thẩm: ông Đinh Công H không phải nộp phí dân sự sơ
thẩm.
3. Án xcông khai, Đinh Công H quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Vũ Văn C vắng mặt tại phiên tòa có quyền
kháng o trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ
ngày bản án được niêm yết.
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN T
Lâm Thị Thanh N
9
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Ninh Bình;
- VKSND KV3-NB;
- Thi hành án TNB;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu án văn./.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Lâm Thị Thanh Nhàn
Tải về
Bản án số 03/2025/DS-ST Bản án số 03/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 03/2025/DS-ST Bản án số 03/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất