Bản án số 03/2021/KDTM-ST ngày 18/09/2021 của TAND huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội về các yêu cầu kinh doanh thương mại trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 03/2021/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2021/KDTM-ST
Tên Bản án: | Bản án số 03/2021/KDTM-ST ngày 18/09/2021 của TAND huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội về các yêu cầu kinh doanh thương mại trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Các yêu cầu kinh doanh thương mại trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Phú Xuyên (TAND TP. Hà Nội) |
Số hiệu: | 03/2021/KDTM-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/09/2021 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngân hàng kiện đòi nợ Bùi Văn th và Lưu Phương L |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, TP HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Quang.
Các hội thẩm nhân dân: 1. Ông Đào Đức Gương.
2. Ông Phạm Văn Hùng.
- Thư ký ghi biên bản phiên toà: Bà Nguyễn Thị Dung - Thư ký Tòa án nhân
dân huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội
tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Xuyên,
Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 03/2021/TLST-
DS ngày 28 tháng 5 năm 2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số 36/2021/QĐXXST - DS ngày 16 tháng 7 năm 2021; giữa các
đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín. Người đại
diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D - Chức vụ : Tổng giám đốc
Trụ sở: 76/18B, Nguyên Hồng, phường 11, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ
Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Mạnh C - Chức vụ: Giám đốc Chi
nhánh Hà Nam.
Người được ông Vũ Mạnh C ủy quyền: Bà Trần Thị Hồng H – Phó phòng
kiểm soát rủi ro Chi nhánh Hà Nam
Địa chỉ: Số 189, Lê Công Thanh, phường Minh Khai, TP Phủ Lý, tỉnh Hà
Nam.
Bị đơn: Ông Bùi Văn Th, sinh năm 1974
Bà Lưu Phương L, sinh năm 1976.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN PHÚ XUYÊN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Bản án số: 03/2021/KDTM - ST
Ngày: 18/9/2021
V/v Tranh chấp hợp đồng tín dụng
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc

2
- Anh Bùi Duy H, sinh năm 1999, cháu Bùi Thùy D, sinh năm 2006, Bùi Đức
A, sinh năm 2014.
Người đại diện theo pháp luật là ông Th, bà L
Đều có HKTT tại thôn Tư Can, xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
Ông Lưu Xuân V, sinh 1951 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1950; Anh Lưu
Bá L, sinh năm 1977 và chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1990. Cháu Lưu Thảo H, sinh
năm 2007, cháu Lưu Hiền L, sinh năm 2011 và Lưu Nhã Ph, sinh năm 2020 (người
đại diện theo pháp luật của các cháu H, L, Ph là anh L và chị X)
Đều có HKTT tại thôn Giẽ Hạ, xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, người đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)
bà Trần Thị Hồng H trình bày:
Ngày 10/04/2018 và ngày 07/05/2019 , ông Bùi Văn Th, bà Lưu Phương L
cùng phía Ngân hàng cổ phần Sài Gòn Thương Tín, (sau đây gọi tắt là Ngân hàng)
ký Hợp đồng tín dụng sô LD 1810000007 ngày 10/04/2018 và thỏa thuận sửa đổi bổ
sung số LD 1810000007 – 01, theo đó, phía Ngân hàng cho ông Th, bà L vay với số
tiền nợ gốc là 1.350.000.000 đồng. Thời hạn vay 12 tháng. Thời hạn nhận tiền vay
đến ngày 07/5/2020. Lãi xuất 9,5%/ năm. Phương thức vay: Hạn mức tín dụng,. Lãi
trả ngày 15 hàng tháng, gốc trả cuối kỳ. Tuy nhiên, sau khi được giải ngân đủ khoản
tiền vay, thì phía ông Th, bà L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Cho đến ngày 13/4/2020,
vợ chồng ông Thay, bà Loan mới trả được phía Ngân hàng 27.749.113 đồng tiền lãi.
Tạm tính đến ngày 17/9/2021, thì phía ông Th, bà L còn phải trả phía nguyên đơn
những khoản nợ sau:
- Nợ gốc: 1.350.000.000 đồng
- Lãi trong hạn: 36.148.150 đồng
- Lãi quá hạn: 225.891.781 đồng
- Phạt chậm trả lãi: 2.114. 826 đồng.
Tổng cả gốc và lãi là: 1.614.154.757 đồng
Phía ngân hàng yêu cầu vợ chồng ông Th, bà L phải thanh toán trả toàn bộ
đầy đủ các khoản nợ trên.
Trường hợp ông Bùi Văn Th và bà Lưu Phương L không trả được nợ thì tiến
hành kê biên, phát mại các tài sản thế chấp gồm:
- Quyền sử dụng thửa đất ở có diện tích 116 m
2
và tài sản gắn liền trên đất
(nhà ở và các công trình kiến trúc khác). Tọa lạc tại thửa đất số 128a, tờ bản đồ số
05, thôn Tư Can, xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AC 887919, được UBND huyện Phú Xuyên, thành phố Hà
Nội cấp ngày 03/11/2008, chủ sử hữu: Ông Bùi Văn Thay và bà Lưu Phương L.
3
- Quyền sử dụng thửa đất ở có diện tích 190 m
2
và tài sản gắn liền trên đất
(nhà ở và các công trình kiến trúc khác), tọa lạc tại thửa đất số 141, tờ bản đồ số 2,
thôn Giẽ Hạ, xã Phú yên, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số A. 657512, do UBND huyện Phú Xuyên, cấp ngày
20/06/1991, chủ sử hữu: Ông Lưu Xuân V và bà Nguyễn Thị H.
Phía bị đơn bà Lưu Phương Loan và ông Bùi Văn Thay (ông Thay ủy quyền
cho bà Loan) trình bày tại hồ sơ:
Bà Loan nhất trí với toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn về
các điều khoản của hợp đồng: Nợ gốc, lãi xuất, thời hạn của hợp đồng vv… do làm
ăn thua lỗ, dịch bệnh nên tạm tính đến ngày13/04/2021 vẫn còn nợ lại phía nguyên
đơn các khoản nợ sau: Nợ gốc: 1.350.000.000 đồng Lãi trong hạn 36.148.148đồng.
Lãi quá hạn 142.090.068 đồng. Lãi phạt quá hạn: 3.602.625 đồng. Tổng cả gốc và
lãi tạm tính đến ngày 23/06/2021 là thời điểm trước khi Tòa án tổ chức phiên hòa
giải (phiên hòa giải Tòa án tổ chức ngày 29/6/2021) với Ngân hàng là:
1.531.840.841 đồng, chưa kể tiền lãi phát sinh sau ngày 13/04/2021 cho đến khi trả
hết nợ. Bà Loan đề nghị phía nguyên đơn cho ông bà trả dần toàn bộ số nợ trên.
Trường hợp không thể trả được nợ thì đồng ý phía Ngân hàng phát mại tài sản thế
chấp theo hợp đồng để trả nợ.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày tại hồ sơ: Anh Bùi Duy Hi
trình bày: Anh là con đẻ của ông Th, bà L, song việc vay nợ, thế chấp tài sản của bố
mẹ anh thế nào, anh không liên quan, anh chỉ là người ở nhờ, không có đóng góp gì,
nên trường hợp Ngân hàng phát mại tài sản thế chấp của bố mẹ anh thì anh cũng
phải chịu.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác là ông Lưu Xuân V, bà
Nguyễn Thị H, anh Lưu Bá L, chị Nguyễn Thị X; Cháu Lưu Thảo H, cháu Lưu Hiền
L và Lưu Nhã Ph (người đại diện theo pháp luật của các cháu H, L, Ph là anh L và
chị X) trình bày tại hồ sơ: Những người này xác nhận, bà L, ông Th là con gái, con
rể của gia đình, ông V, bà H, có đồng ý cho ông Th, bà L thế chấp tài sản của ông V,
bà H là quyền sử dụng thửa đất ở có diện tích 190 m
2
cùng tài sản gắn liền với đất là
nhà ở, cùng các công trình kiến trúc khác, tại thửa đất số 141, tờ bản đồ số 2, thôn
Giẽ Hạ, xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, chủ sử dụng, sở hữu là V
và bà H, song yêu cầu ông Th, bà L phải thanh toán, trả nợ Ngân hàng và trả lại
quyền về tài sản cho gia đình, không đồng ý để Ngân hàng kê biên phát mại tài sản
đã thế chấp.
Đại diện VKSND tham gia phiên toà xác định:
Về tố tụng: Quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà, Thẩm phán, Thư ký
được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định về thu thập chứng
cứ, chấp hành đúng pháp luật tố tụng; Đương sự vắng mặt đã được Tòa án tạo mọi
điều kiện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự; Đương sự có mặt đã
thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình trong suốt quá trình tố
tụng cũng như tại phiên toà...
Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

4
và áp dụng các điều: 280; 299 317, 318, 319, 323, 463, 466, 470 Bộ luật dân sự;
Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 79 Luật đất Đai 2013; Nghị định
163/2006/NĐ-CP và Nghị định sô 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ; xử: Buộc vợ
chồng ông Bùi Văn Th và bà Lưu Thị Phương L phải trả cho ngân hàng thương mại
cổ phần Sài Gòn Thương Tín số nợ tính đến ngày 17/9/2021 theo hợp đồng tín dụng,
Tổng cả gốc và lãi là: 1.614.154.757 đồng.
Kể từ ngày 18/9/2021 cho đến khi thi hành án xong, ông Thay, bà Loan còn
phải trả cho phía ngân hàng khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng.
Trường hợp ông Th, bà L không trả được nợ thì kê biên, phát mại toàn bộ tài
sản thế chấp theo các hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ.
Ngoài ra đề nghị buộc ông Th, bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy
định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở lời trình bày của các bên
đương sự và quan điểm của Đại diện VKSND, HĐXX nhận định:
[1] Về tố tụng:
Về quan hệ pháp luật:
Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ kiện dấn sự, giữa 01 bên là Doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực Ngân hàng tiền tệ, cụ thể là Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín và 01 bên là hộ kinh doanh cơ sở sản xuất, buôn bán giày dép, dây lưng
ví da của vợ chồng ông Bùi Văn Th và bà Lưu Thị L mà ông Th đứng tên là chủ hộ,
theo giấy phép đăng ký kinh doanh số 01B-8009054 ngày đăng ký lần đầu ngày
13/10/2017 do Phòng Tài chính- Kê hoạch huyện Phú Xuyên cấp, nên đây là tranh
chấp hợp đồng tín dụng, theo quy định tại Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự
Về thẩm quyền theo lãnh thổ: Do bị đơn những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đều có địa chỉ, nơi cư trú và tài sản thế chấp tại huyện Phú Xuyên,Thành
phố Hà Nội, vì vậy TAND huyện Phú Xuyên thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định
tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về thời hiệu khởi kiện: Vụ án còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều
184 Bộ luật tố tụng dân sự và các Điều 149, 154, 157 Bộ luật dân sự năm 2015.
Về sự vắng mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Mặc dù đã
được Tòa án triệu tập phiên tòa hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn và những người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn vắng mặt, do vậy việc xét xử vắng mặt những
người này là phù hợp theo quy định tại điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
Về hợp đồng tín dụng:

5
Xét yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Thương Tín
Sài Gòn có căn cứ để chấp nhận bởi lẽ:
Theo hợp đồng tín dụng số LD 1810000007 ngày 10/4/2018 và thỏa thuận sửa
đổi bổ sung số LD1810000007-1 ngày 07/5/2020, thì phía nguyên đơn là Ngân hàng
TMCP Thương Tín Sài Gòn cho vợ chồng ông Bùi Văn Th và bà Lưu Thị L cùng ký
hợp đồng tín dụng và các giấy nhận nợ theo đó, phía nguyên đơn cho ông Thay, bà
Loan vay 1.350.000.000 đồng tiền gốc, mục đích vay: Bổ sung vốn kinh doanh giầy
dép, lãi xuất được tính theo từng lần theo thỏa thuận của các bên và tất cả đều ở mức
9,5%/năm. Thời hạn vay12 tháng, Hạn trả lãi: Ngày 15 hàng tháng. Lãi phạt = 8%
giá trị phần nghĩa vụ bị xâm phạm. Sau khi ký hợp đồng Phía ngân hàng đã giải
ngân cho ông Thay, bà Loan toàn bộ số tiền vay nợ gốc theo thỏa thuận
1.350.000.000đồng.
Quá trình giải quyết việc kiện tại Tòa, các bên xác nhận hợp đồng tín dụng
được thỏa thuận, ký kết trên cơ sở tự nguyện, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối
các điều khoản quy định trong hợp đồng về tiền gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn....đều
không trái với quy định của pháp luật. Tranh chấp chỉ xảy ra khi mà phía bị đơn đã
vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ lãi với Ngân hàng, theo đó, đến ngày 15/4/2020,
phía bị đơn mới thanh toán được cho Ngân hàng 27.749.113 đồng tiền lãi. Sau thời
điểm trên, thì phía ông Th, bà L không trả được thêm cho phía Ngân hàng khoản
tiền nào nữa. Tính đến thời điểm xét xử là ngày 17/9/2021 phía ông Th, bà L còn nợ
ngân hàng thương mại cổ phần Thương Tín Sài gòn các số tiền cụ thể như sau:
- Nợ gốc: 1.350.000.000 đồng
- Lãi trong hạn: 36.148.150 đồng
- Lãi quá hạn: 225.891.781 đồng
- Phạt chậm trả lãi: 2.114. 826 đồng.
Tổng cả gốc và lãi là: 1.614.154.757 đồng
Xét yêu cầu của phía nguyên đơn là có căn cứ, Tòa chấp nhận.
Về tài sản thế chấp: Theo các hợp đồng thế chấp tài sản số
LD1810000007/HĐTC có số công chứng 514/2018/HĐTC1, quyển số 01-TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 10/4/2018 và hợp đồng thế chấp tài sản số
LD1810000007/HĐTC2 có số công chứng 605/2018/HĐTC, quyển số 01-TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 19/4/2018, tại Văn phòng Công chứng Hưng Vượng, thị trấn Phú
Xuyên, huyện Phú Xuyên, giữa phía nguyên đơn với vợ chồng ông Th, bà L, vợ
chồng ông Vượng, bà Hội, thì để đảm bảo cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng
phía ông Th bà L, ông V, bà H, đã thế chấp các tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu các tài sản trên đất là:
1. Quyền sử dụng thửa đất ở có diện tích 116 m
2
và tài sản gắn liền với đất là
01 ngồi nhà 02 tầng có tổng diện tích xây dựng 110 m
2
, tổng diện tích sử dụng 170
m
2
. Tọa lạc tại thửa đất số 128a, tờ bản đồ số 05, thôn Tư Can, xã Châu Can, huyện
Phú Xuyên, Hà Nội. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 887919, được
6
UBND huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội cấp ngày 03/11/2008, chủ sử hữu: Ông
Bùi Văn Th và bà Lưu Phương L.
2. Quyền sử dụng thửa đất ở có diện tích 190 m
2
và tài sản gắn liền với đất là
01 ngôi nhà 02 tầng, tổng diện tích xây dựng 100 m
2
, tổng diện tích sử dụng 200 m
2
tọa lạc tại thửa đất số 141, tờ bản đồ số 2, thôn Giẽ Hạ, xã Phú Yên, huyện Phú
Xuyên, thành phố Hà Nội, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A. 657512, do
UBND huyện Phú Xuyên, cấp ngày 20/06/1991, chủ sử hữu: Ông Lưu Xuân Vượng
và bà Nguyễn Thị Hội.
Qua xem xét thẩm định tài sản thế chấp, Tòa án nhận thấy, về cơ bản toàn bộ
các tài sản thế chấp trên hiện tại vẫn thuộc quyền sử dụng, sở hữu của những người
thế chấp thì:
Đối với diện tích đất ở 116 m
2
đứng tên chủ sử dụng là ông Bùi Văn Thay và
bà Lưu Phương Loan, thì trên đất có 01 ngồi nhà 02 tầng, khép kín, có tổng diện tích
xây dựng 110 m
2
, tổng diện tích sử dụng 170 m
2
, được xây dựng trước thời điểm thế
châp (khoảng năm 2010 – 2011) cho nguyên đơn. Tài sản hiện tọa lạc tại thửa đất số
128a, tờ bản đồ số 05, thôn Tư Can, xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, ông Th, bà L
là chủ sử dụng, sở hữu cư trú thì còn có các con của ông bà là anh Bùi Duy Hải,
cháu Bùi Thùy D, và cháu Bùi Đức A đang ở nhờ tại đây.
Đối với diện tích 190 m
2
đất ở đứng tên chủ sử dụng là ông Lưu Xuân Vượng
và bà Nguyễn Thị Hội thì trên đất có 01 ngôi nhà 02 tầng, kiên cố và các công trình
phụ như bếp, nhà ngang vv...được xây dựng từ trước thời điểm thế chấp cho Ngân
hàng (khoảng năm 2001), ngoài ra ông bà còn làm thêm toàn bộ lán kim loại, lợp tôn
cách nhiệt với diện tích khoảng 60 m
2
trên khoảng sân trước nhà vào đầu năm 2021.
Tại diện tích đất và nhà ở trên, ngoài ông Vượng, bà Hội, thì còn có vợ chồng anh
Lưu Bá Lai, chị Nguyễn Thị X; cùng các con của anh chị là cháu Lưu Thảo H, cháu
Lưu Hiền L và Lưu Nhã Ph đang cư trú tại đây. Tuy nhiên, như chính ông V, bà H,
anh L, chị X xác nhận, toàn bộ khối tài sản này là của vợ chồng ông V, ông bà chưa
phân chia, chuyển nhượng, tặng cho thừa kế vv…cho bất cứ ai, các con, cháu của
ông bà đều đang ở nhờ tại đây.
Hiện tại, cả 02 khối tài sản thế chấp này, ngoài những người tham gia hợp
đồng thế chấp tài sản cư trú cùng với các con cháu họ, hiện không được cho thuê,
cho mượn, hoặc bị chuyển dịch bởi bất cứ một lý do nào khác.
Tại tòa, quá trình giải quyết việc kiện, trong khi phía ông Th, bà L chấp nhận
việc không trả được nợ, thì phía Ngân hàng có quyền đề nghị, kê biên, phát mại diện
tích đất ở 116 m
2
và tài sản trên đất của vợ chồng tại thôn Tư Can, xã Châu Can,
huyện Phú Xuyên, thì phía ông V , bà H không đồng ý phát mại tài sản thế chấp
thuộc quyền sử dụng, sở hữu của ông bà với lý do nghĩa vụ này là của ông Thay, bà
Loan. Hội đồng xét xử nhận thấy, việc thế chấp các tài sản để đảm bảo các khoản
tiền vay giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, có sự chứng kiến của công chứng viên,
cơ quan Công chứng, khi làm thủ tục thế chấp tài sản, các bên đã thực hiện đúng quy
định của pháp luật... Vì vậy, việc phía ngân hàng đề nghị được quyền yêu cầu cơ
quan thi hành án kê biên, phát mại, xử lý các tài sản thế chấp trong trường hợp ông

7
Thay, bà Loan không thanh toán trả được toàn bộ các khoản nợ trên là có cơ sở, dù
có thông cảm cho những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, hoang mang, lo
lắng nếu xảy ra tình huống xấu, là tài sản của họ, bị kê biên, phát mại thu hồi nợ trả
ngân hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, thì vẫn không thể làm khác được, bởi
người đã quyết định tham gia quan hệ thế chấp tài sản phải xác định được rằng, khi
mình chấp nhận thỏa thuận, ký kết, thế chấp tài sản của mình cho Ngân hàng để
phục vụ cho mục đích vay tài sản, thì đương nhiên, khi người vay tài sản (ông Th, bà
L) thực hiện chậm hoặc không thực hiện nghĩa vụ của họ, thì tài sản thế chấp sẽ bị
phát mại để thu hồi nợ cho Ngân hàng là một thực tế không thể tránh khỏi. Vì vậy,
HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị được kê biên, phát mại toàn bộ
các tài sản thế chấp nêu trên để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.
[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại
cổ phần Sài Gòn Thương Tín được chấp nhận nên bị đơn là ông Th, bà L phải chịu
án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
khóa 14 với số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 60.584.000 đồng và hoàn trả cho phía
nguyên đơn toàn bộ số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 28.977.000 đồng
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại
các Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các điều 30, 35, 39, 144, 147, 159, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng
dân sự. Các điều: 280; 299, 303, 304, 317, 318, 319, 320, 321, 323, 463, 465, 466,
470, 568 Bộ luật dân sự; Khoản 2 điều 91, 94,95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 79
Luật Đất đai 2013; Nghị định 163/2006/NĐ - CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dich bảo đảm và Nghị định sô 11/2012/NĐ - CP ngày 22/2/2012 của Chính
phủ, sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 163/2006/NĐ - CP về giao dich bảo
đảm; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, qui định về thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
Thương Tín.
2. Buộc ông Bùi Văn Th và bà Lưu Phương L phải thanh toán trả Ngân hàng
thương mại cổ phẩn Sài Gòn Thương Tín các khoản nợ tạm tính đến ngày 17/9/2021
theo Hợp đồng thẻ tín dụng số LD 1810000007 ngày 10/4/2018 và thỏa thuận sửa
đổi bổ sung số LD1810000007-1 ngày 07/5/2020 và các giấy nhận nợ của hợp đồng
này, cụ thể như sau:
- Nợ gốc: 1.350.000.000 đồng
- Lãi trong hạn: 36.148.150 đồng
- Lãi quá hạn: 225.891.781 đồng

8
- Phạt chậm trả lãi: 2.114. 826 đồng.
Tổng cả gốc và lãi là: 1.614.154.757 đồng (Một tỷ, sáu trăm mười bốn triệu,
một trăm năm mươi tư ngàn, bảy trăm năm mươi bảy đồng)
Kể từ ngày 18/9/2021 cho đến khi thi hành án xong, ông Thay, bà Loan còn
phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn thỏa thuận tại Hợp đồng
cấp tín dụng.
Trường hợp ông Bùi Văn Th và bà Lưu Phương L không trả được nợ thì tiến
hành kê biên, phát mại các tài sản thế chấp gồm:
1. Quyền sử dụng thửa đất ở có diện tích 190 m
2
và toàn bộ tài sản gắn liền
với đất là 01 ngôi nhà 02 tầng, diện tích xây dựng 100m
2
, tổng diện tích sử dụng 200
m
2
tọa lạc tại thửa đất số 141, tờ bản đồ số 2, thôn Giẽ Hạ, xã Phú yên, huyện Phú
Xuyên, thành phố Hà Nội, được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A. 657512,
UBND huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội cấp ngày 20/06/1991, chủ sử hữu: Ông
Lưu Xuân Vượng và bà Nguyễn Thị Hội.
2. Quyền sử dụng thửa đất ở có diện tích 116 m
2
và tài sản gắn liền với đất là
01 ngồi nhà 02 tầng (khép kín) có tổng diện tích xây dựng 110 m
2
, tổng diện tích sử
dụng 170 m
2
. Tọa lạc tại thửa đất số 128a, tờ bản đồ số 05, thôn Tư Can, xã Châu
Can, huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC
887919, được UBND huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội cấp ngày 03/11/2008,
chủ sử hữu: Ông Bùi Văn Th và bà Lưu Phương L.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
2. Về án phí, quyền kháng cáo, nghĩa vụ thi hành án:
- Ông Bùi Văn Th và bà Lưu Phương L phải nộp 60.424.643 đồng (Sáu mươi
triệu, bốn trăm hai mươi bốn ngàn, sáu trăm bốn mươi ba đồng) án phí dân sự sơ
thẩm.
- Trả lại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín 28.977.000
đồng (Hai mươi tám triệu, chín trăm bảy mươi bảy, ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí
dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền số 00047556 ngày 27/5/2021 tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án,
bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả
bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan được kháng cáo phần có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư
trú
9
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Hội thẩm nhân dân Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
( đã ký)
Nguyễn Văn Quang
10
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
11
12
13
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 21/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 01/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 19/10/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 23/06/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 19/06/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 23/09/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/08/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 18/07/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 07/12/2021
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/09/2021
Cấp xét xử: Sơ thẩm