Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT ngày 20/01/2025 của TAND tỉnh Hà Tĩnh về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2025/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT ngày 20/01/2025 của TAND tỉnh Hà Tĩnh về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hà Tĩnh
Số hiệu: 02/2025/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/01/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Anh Phạm Đình Ltranh chấp chia tài sản sau lu hôn với chị Bùi Thị T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ TĨNH
Bản án số: 02/2025/HNGĐ-PT
Ngày: 20/01/2025
V/v “Tranh chấp chia tài sản chung
sau khi ly hôn”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Quang Năng
Các Thẩm phán: Ông Bùi Minh Thư, Bà Trương Thị Lệ Thu.
- Thư phiên tòa: Thanh Huyền - Thư Tòa án, Tòa án nhân dân tỉnh
Tĩnh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tĩnh tham gia phiên tòa: Dương Thị
Thanh Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tĩnh xét xử phúc thẩm
vụ án Hôn nhân gia đình thụ số 05/2024/TLPT HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2024
do có kháng cáo của nguyên đơn anh Phạm Đình L đối với bản án Hôn nhân gia đình sơ
thẩm số 17/2024/HN-ST ngày 16/9/2024 của TAND huyện Hương Sơn, tỉnh
Tĩnh, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2024/QĐXX-PT ngày 12/102/2024,
Quyết định hoãn phiên tòa số 05/QĐ-PT ngày 27/12/2024, Thông báo mở lại phiên tòa
số 03/TB-TA ngày 08/01/2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Phạm Đình L, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn T, S, huyện
H, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.
- Bị đơn: Chị Bùi Thị T, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn T, S, huyện H, tỉnh
Tĩnh; Có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Phạm Thị S, sinh năm: 1957; địa chỉ: Thôn T, S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh;
Vắng mặt.
+ Bà Phạm Thị N, sinh năm: 1961; địa chỉ: Thôn T, S, huyện H, tỉnh Tĩnh;
Vắng mặt.
+ Phạm Thị Thanh N1, sinh năm: 1965; địa chỉ: Thôn T, S, huyện H, tỉnh
Hà Tĩnh; Vắng mặt.
+ Phạm Thị Hồng T1, sinh năm: 1969; địa chỉ: Thôn T, S, huyện H, tỉnh
Hà Tĩnh; Vắng mặt.
+ Anh Phạm Văn S1, sinh năm: 1973; địa chỉ: Thôn K, S, huyện H, tỉnh
Tĩnh; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung Bản án Hôn nhân gia đình thẩm s17/2024/HNGĐ-ST ngày
16/9/2024 của TAND huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh và các tài liệu có tại hồ sơ, vụ án
nội dung như sau: Anh L chị T kết hôn với nhau tnguyện đăng kết hôn
vào ngày 03/12/2001. Trong cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn không khắc phục
được nên đã đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Tại Bản án số 12/2023/HNGĐ - ST, ngày
21/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh: Tuyên xử: Về quan hệ
hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của anh Phạm Đình L được ly hôn với chị Bùi Thị T, giao
hai con chung cháu Phạm Thị A, sinh ngày 09/4/2008 cháu Phạm Gia H, sinh
ngày 15/01/2013 cho anh Phạm Đình L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành
(đủ 18 tuổi). Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung vợ chồng, không
yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bên đương skhông kháng cáo,
Bản án có hiệu lực pháp luật.
Sau khi ly hôn, anh L chị T không tự thỏa thuận được về tài sản chung của v
chồng nên anh L đề nghị Tòa án giải quyết chia tài sản chung giữa anh L chị T như
sau: Trong quá trình chung sống, anh L và chị T tạo dựng được khối tài sản chung
gồm:
+ 01 ngôi nhà 01 tầng, móng xây gạch đá, tường xây gạch táp lô dày 150 mm,
nền láng vữa xi măng, tường trát không sơn; chưa hệ thống cữa, mái lợp ngói
FibroXM, hộc cao 4,5m, nhà được xây làm 3 phòng. Diện tích xây dựng 67,3m
2
(nhà
chính);
+ 01 ngôi nhà 01 tầng, móng xây gạch đá, nên láng vữa xi măng, tường xây gạch
táp lô, hộc cao 3,47m; mái lợp Pờ xi măng đã dột nát, nhà được xây làm 02 phòng,
chưa có hệ thống điện. Diện tích xây dựng 32,2m
2
(nhà bếp);
+ 01 nhà tắm được xây dựng làm 02 phòng, xây bằng gạch đỏ, ốp lát phía
trong cao 1,8m, mái lợp FibroXM. Diện tích xây dựng 11m
2
+ 01 mái che lợp bằng tôn màu (được làm vào năm 2022), cột bằng ống thép,
khung bằng thép hộp. Diện tích xây dựng 47,6m
2
;
+ 01 chuồng trại chăn nuôi, móng đá xây gạch, cột pê tông, khung gỗ nhóm 4 - 5,
mái lợp FibroXM, gồ bằng gỗ, nền láng vữa xi măng, tường xây gạch táp không
trát. Diện tích 25m
2
;
+ 01 giếng khoan sâu 30m;
+ 01 máy bơm nhãn hiệu TP đang sử dụng được;
+ 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Tân Á 1000 Lít (mua năm 2022);
+ 01 tẹc nước nhãn hiệu T (mua 2016);
+ 01 vanh đựng lúa bằng tôn màu trắng, cao 1,35m, đường kính 93cm (03
khoanh);
+ 01 bộ bàn I Nốc tròn
+ 10 ghế tựa bằng nhựa màu đỏ.
+ 01 cây sung vanh 60cm, cao khoảng 03 cm;
+ 01 cây xoan đâu vanh 100cm, cao khoảng 06m;
+ 02 cây xoan đâu vanh 70cm, cao khoảng 04m;
+ 03 cây cam bù mới trồng mới trồng 03 năm tuổi;
+ 02 cây bưởi đã cho ra quả;
+ 01 cây cau lùn đã cho ra quả;
+ 06 cây cau mới trồng 04 năm tuổi;
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa chị Bùi Thị T trình bày: Nhất trí ý
kiến anh L đưa ra về các loại tài sản nêu trên tài sản chung trong quá trình hôn nhân
giữa anh L và chị T. Tuy nhiên chị T đề nghị anh Phạm Đình L hoàn lại cho chị T ½ giá
trị các loại tài sản mà anh L và chị T đã thống nhất như buổi hòa giải ngày 30/8/2024 cụ
thể như sau:
+ Giá trị ½ 01 ngôi nhà 01 tầng, móng xây gạch đá, tường xây gạch táp dày
150 mm, nền láng vữa xi măng, tường trát không sơn; chưa hệ thống cữa, mái lợp
ngói FibroXM, hộc cao 4,5m, nhà được xây làm 3 phòng. Diện tích xây dựng 67,3m
2
(nhà chính).
+ Giá trị ½ 01 ngôi nhà 01 tầng, móng xây gạch đá, nên láng vữa xi măng, tường
xây gạch táp lô, hộc cao 3,47m; mái lợp Pờ xi măng đã dột nát, nhà được xây làm 02
phòng, chưa có hệ thống điện. Diện tích xây dựng 32,2m
2
nhà bếp);
+ Giá trị ½ 01 nhà tắm được xây dựng làm 02 phòng, xây bằng gạch đỏ, có ốp lát
phía trong cao 1,8m, mái lợp FibroXM. Diện tích xây dựng 11m
2
;
+ Giá trị ½ 01 mái che lợp bằng tôn màu (được làm vào năm 2022), cột bằng ống
thép, khung bằng thép hộp. Diện tích xây dựng 47,6m
2
;
+ Giá trị ½ 01 chuồng trại chăn nuôi, móng đá xây gạch, cột tông, khung gỗ
nhóm 4 - 5, mái lợp FibroXM, gồ bằng gỗ, nền láng vữa xi măng, tường xây gạch
táp lô không trát. Diện tích 25m
2
;
+ Giá trị ½ 01 giếng khoan sâu 30m.
Theo kết quả định giá t tổng giá trị toàn bộ các loại tài sản nêu trên là:
229.257.280 đồng (có biên bản định giá + phụ lục kèm theo ngày 05/7/2024). Chị T yêu
cầu anh Phạm Đình L phải hoàn lại cho chị T ½ trị giá các loại tài sản nêu trên 114.
628.640 (một trăm mười bốn triệu sáu trăm hai mươi tám ngàn sáu trăm bốn mươi)
đồng. Sau khi nhận đủ số tiền trên chị T sẽ đi tìm nơi mới anh L được toàn quyền
sử dụng các loại tài sản trên. Đối với diện tích đất là của bố mẹ anh L để lại chị T không
yêu cầu giải quyết, ngoài các loại tài sản chị T yêu câu phân chia trên, chị T không
yêu cầu phân chia thêm mà để lại cho anh L toàn quyền sở hữu.
Sau khi chị Bùi Thị T trình bày anh Phạm Đình L ý kiến: Chị T đưa ra yêu cầu
tôi hoàn lại giá trị các loại tài sản 114. 628.640 đồng là đúng với giá trị các loại tài sản
Hội đồng định giá đưa ra nhưng bản thân tôi hiện nay lao động phổ thông, chỉ
trông chờ vào mấy sào ruộng, không một nghề phụ nào hết, một mình nuôi hai con
ăn học nên không số tiền 114.628.640 đồng để hoàn lại cho chị T. Tôi chỉ hoàn lại
cho chị T số tiền 50.000.000 đồng, nếu chị T không nhất trí thì đề nghị Toà án giải
quyết theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa những người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan trình bày, gồm : Phạm Thị S, Phạm Thị N, Phạm Thị Thanh N1,
Phạm Thị Hồng T1 anh Phạm Văn S1, trình bày: Khi anh L chị T đang vợ
chồng quá trình làm nhà và một số công trình khác, chúng tôi cũng có mặt góp công sức
một số tiền bạc vào để anh L chị T xây dựng các công trình như đã trình bày, anh
L em trai chúng tôi. Mặc chúng tôi có công sức khi anh L chị T xây dựng tài
sản chung, tuy nhiên chúng tôi đã giúp, đã cho thì chúng tôi không lấy lại, không yêu
cẩu Tòa án giải quyết, còn tài sản chung của hai người đnghị Tòa án giải quyết quy
định của pháp luật.
Về ngôi nhà 01 tầng, móng xây gạch đá, tường xây gạch táp dày 150 mm, nền
láng vữa xi măng, tường trát không sơn; chưa hệ thống cữa, mái lợp ngói FibroXM,
hộc cao 4,5m, nhà được xây làm 3 phòng. Diện tích xây dựng 67,3m
2
: Theo Công n
số 60/BC - UBND “V/v kiểm tra, cung cấp hồ sơ, tài liệu chứng cứ về chính sách hỗ trợ
nhà ở cho hộ nghèo”, ngày 29/8/2024 của UBND xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh cho biết:
Qua làm việc với hộ ông Phạm Đình L, Bùi Thị T cũng như các cán bộ làm vic lâu
năm tại địa phương khẳng định hộ gia đình ông Phạm Đình L được hỗ trợ xây dựng nhà
thuộc nguồn hỗ trợ của Ủy ban mặt trận Tổ Quốc nhưng mức hỗ trợ bao nhiêu thì
không xác định được mức cụ thể do cán bộ phụ trách nhà thời kỳ đó hiện đã qua đời,
cán bộ kế nhiệm đã chuyển công tác.
Việc xem xét thẩm định tại chỗ định giá tài sản như sau: Hội đồng định giá đã
thống nhất định giá như sau: Vật kiến trúc trị giá: 229.257.280 đồng, gồm: 01 ngôi nhà
01 tầng, móng xây gạch đá, tường xây gạch táp dày 150 mm, nền láng vữa xi măng,
tường trát không sơn; chưa hthống cữa, mái lợp ngói FibroXM, hộc cao 4,5m, nhà
được xây làm 3 phòng. Diện tích xây dựng 67,3m
2
(nhà chính) là 123.805.080 đồng; 01
ngôi nhà 01 tầng, móng xây gạch đá, nên láng vữa xi măng, tường xây gạch táp lô, hộc
cao 3,47m; mái lợp Pờ xi măng đã dột nát, nhà được xây làm 02 phòng, chưa hệ
thống điện. Diện tích xây dựng 32,2m
2
nbếp); 01 nhà tắm được xây dựng làm 02
phòng, xây bằng gạch đỏ, ốp lát phía trong cao 1,8m, mái lợp FibroXM. Diện tích
xây dựng 11m
2
11.715.000 đồng; 01 mái che lợp bằng tôn màu (được làm vào năm
2022), cột bằng ống thép, khung bằng thép hộp. Diện tích xây dựng 47,6m
2
22.657.600 đồng; 01 chuồng trại chăn nuôi, móng đá xây gạch, cột tông, khung gỗ
nhóm 4 - 5, mái lợp FibroXM, gồ bằng gỗ, nền láng vữa xi măng, tường xây gạch
táp lô không trát. Diện ch 25m
2
16.475.000 đồng; 01 giếng khoan sâu 30m là
9.750.000 đồng (là vật kiến trúc chị T yêu cầu Tòa án giải quyết). Đất đai trị
giá:152.600.000 đồng; Vật dụng trị giá: 7.000.000 đồng; Cây cối trị giá: 33.330.000
đồng. Tổng giá trị các loại tài sản trên: 422.187.280 đồng (có biên bản định giá + phụ
lục kèm theo ngày 05/7/2024).
Đối với đất đai trị giá: 152.600.000 đồng anh L, chị T đều nhất trí cho rằng diện
tích đất nói trên của ông Phạm Văn Đ, được cấp ngày 01/10/1998, không yêu cầu
chia; Vật dụng trị giá: 7.000.000 đồng; Cây cối trị giá: 33.330.000 đồng chị T không
yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản án Hôn nhân gia đình thẩm s17/2024/HNGD-ST ngày 16/9/2024 của
TAND huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định:
"- Căn cứ khoản 1, Điều 28; khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1,
Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 33; Điều 59 Luật
Hôn nhân gia đình năm 2014 khoản 3 Điều 144 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm đ
khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phạm
Đình L về việc chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn.
- Giao cho anh Phạm Đình L được sở hữu toàn bcác loại tài sản là: Vật kiến
trúc; Vật dụng Cây cối (n trong biên bản định giá + phụ lục kèm theo ngày
05/7/2024). Tổng giá trị các loại tài sản anh Phạm Đình L được hưởng là:
269.587.280 đồng.
- Anh Phạm Đình L nghĩa vụ giao lại cho chị Bùi Thị T số tiền 114.628.640
đồng, là số tiền chênh lệch tài sản mà chị T được hưởng (theo yêu cầu chia của chị T).
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 30/9/2024 anh Phạm Đình L kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại
toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện nội dung
kháng cáo. Bị đơn giữ nguyên ý kiến và đồng ý với quyết định của Tòa án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh sau khi nhận xét về việc tuân theo pháp luật của
Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử, Tký phiên tòa các bên đương sự đã đề nghị
Hội đồng xét x căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn anh Phạm Đình L. Giữ nguyên Bản án thẩm số
17/2024/HNGD-ST ngày 16/9/2024 của TAND huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu,
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Vthủ tục tố tụng: Tòa án thẩm đã xác định đúng quan hpháp luật thụ
lý giải quyết vụ án theo thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm đã xác định
đúng, đầy đủ tư cách của những người tham gia tố tụng.
Tại phiên tòa phúc thẩm những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được
triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy
định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Anh Phạm Đình L kháng cáo trong thời hạn luật định nên được chấp nhận xem
xét.
[3] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn anh Phạm Đình L, Hội đồng xét xử thấy
rằng:
[3.1] Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống anh Phạm Đình L chị Bùi
Thị T đã thừa nhận có tạo lập được khối tài sản chung gồm: 01 ngôi nhà 01 tầng, móng
xây gạch đá, tường xây gạch táp dày 150 mm, nền láng vữa xi măng, tường trát
không sơn; chưa hệ thống cữa, mái lợp ngói FibroXM, hộc cao 4,5m, nhà được xây
làm 3 phòng. Diện tích xây dựng 67,3m
2
(nhà chính); 01 ngôi nhà 01 tầng, móng xây
gạch đá, nên láng vữa xi măng, tường xây gạch táp lô, hộc cao 3,47m; mái lợp Pờ rô xi
măng đã dột nát, nhà được xây làm 02 phòng, chưa hệ thống điện. Diện tích xây
dựng 32,2m
2
(nhà bếp); 01 nhà tắm được xây dựng làm 02 phòng, xây bằng gạch đỏ, có
ốp lát phía trong cao 1,8m, mái lợp FibroXM. Diện tích xây dựng 11m
2
; 01 mái che lợp
bằng tôn màu (được làm vào năm 2022), cột bằng ống thép, khung bằng thép hộp. Diện
tích xây dựng 47,6m
2
; 01 chuồng trại chăn nuôi, móng đá xây gạch, cột pê tông, khung
gỗ nhóm 4 - 5, mái lợp FibroXM, xà gồ bằng gỗ, nền láng vữa xi măng, tường xây gạch
táp không trát. Diện ch 25m
2
; 01 giếng khoan sâu 30m; 01 máy bơm nhãn hiệu TP
đang sử dụng được; 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Tân Á 1000 Lít (mua năm 2022); 01
tẹc nước nhãn hiệu T (mua 2016); 01 vanh đựng lúa bằng tôn màu trắng, cao 1,35m,
đường kính 93cm (03 khoanh); 01 bộ bàn I Nốc tròn; 10 ghế tựa bằng nhựa màu đỏ; 01
cây sung vanh 60cm, cao khoảng 03 cm; 01 cây xoan đâu vanh 100cm, cao khoảng
06m; 02 cây xoan đâu vanh 70cm, cao khoảng 04m; 03 cây cam bù mới trồng mới trồng
03 năm tuổi; 02 cây bưởi đã cho ra quả; 01 cây cau lùn đã cho ra quả; 06 cây cau mới
trồng 04 năm tuổi.
Theo nội dung kháng cáo, anh Phạm Đình L cho rằng ngôi nhà chính được xây
dựng trên đất của bố anh ông Phạm Văn Đ, được xây dựng bằng tiền hỗ trợ gia đình
khó khăn, tiền Huân Huy chương của bố anh và tiền anh chị em góp lại nên không tính
vào tài sản chung vợ chồng. t thấy, ngôi nhà được xây dựng trong thời khôn nhân,
hỗ trợ xây dựng nhà thuộc nguồn hỗ trợ của Ủy ban mặt trận Tổ quốc cho hộ anh
Phạm Đình L chị Bùi Thị T, quá trình xây dựng những người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan bà Phạm Thị S, Phạm Thị N, Phạm Thị Thanh N1, Phạm Thị Hồng T1 và anh
Phạm Văn S1 anh chị em của anh Phạm Đình L lời khai góp công sức xây dựng
nhưng không căn cứ chứng minh, việc góp công sức xây dựng nhà do họ tự
nguyện cho vợ chồng anh L, chị T không yêu cầu gì. Anh L kháng cáo nhưng
không tài liệu chứng minh đây không phải tài sản chung vợ chồng nên không
căn cứ chấp nhận. Do đó, xác định ngôi nhà chính những i sản nêu trên tài sản
chung của vợ chồng.
[3.2] Về yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng: Tại phiên tòa thẩm và phúc
thẩm, nguyên đơn có nguyện vọng được chia tài sản chung bằng hiện vật và hoàn trả lại
số tiền 50.000.000 đồng cho bị đơn chị Bùi Thị T. Bị đơn chị Bùi Thị T nguyện vọng
được chia bằng tiền đối với vật kiến trúc ½ giá trị 01 ngôi nhà chính, nhà bếp, nhà
tắm, mái che lợp bằng tôn màu, chuồng trại chăn nuôi, giếng khoan, theo kết quả định
giá tài sản số tiền 114.628.640 đồng. Đối với cây cối, vật dụng chị Bùi Thị T tự
nguyện không yêu cầu chia. Hội đồng xét xử thấy rằng, các loại tài sản chung mà anh L
chị T tạo lập được trong quá trình hôn nhân nhiều hơn so với các loại tài sản mà chị
T yêu cầu giải quyết, các loại tài sản này nằm trong số những loại tài sản chung được
tạo lập trong quá trình hôn nhân giữa anh L và chị T. ChT chỉ yêu cầu chia 1/2 trị giá
các loại tài sản nêu trên quyền tự định đoạt của đương sự, không vi phạm pháp luật
và trái đạo đức xã hội, nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự định đoạt đó của chị T. Anh L
chị T đều lao động đtạo ra khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nên xác định
anh L và chị T công sức đóng góp vào khối tài sản chung bằng nhau, nên anh L
chị T mỗi người được hưởng ½ trị giá tài sản. Anh L nguyện vọng được sở hữu toàn
bộ số tài sản chung của anh L chị T trong quá trình hôn nhân giao lại số tiền
chênh lệch cho chị T là phù hợp với thực tế hiện tại và hoàn cảnh của hai bên.
Tại phiên tòa phúc thẩm anh L cho rằng một số tài sản Hội đồng định giá tài sản
định giá cao hơn giá trị thực tế nhưng không căn cứ chứng minh. Quá trình xem xét
thẩm định tại chđịnh giá tài sản các đương sự hoàn toàn thống nhất, tại biên bản
hòa giải ngày 30/8/2024, anh L trình bày thống nhất với giá của Hội đồng định giá đưa
ra nhưng do không tiền, hoàn cảnh khó khăn nên chỉ chấp nhận giao cho chị T số
tiền 50.000.000 đồng. Việc anh L tự đưa ra giá các tài sản như nội dung kháng o
không sở xem xét. Do đó bản án thẩm xét xử hoàn toàn căn cứ, đúng
pháp luật.
[4] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tại phiên tòa là
phù hợp.
[5] Về án phí: Anh Phạm Đình L hộ cận nghèo nên không phải chịu án phí
phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của
bị đơn anh Phạm Đình L. Giữ nguyên bản án sơ thẩm 17/2024/HNGĐ-ST ngày
16/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Căn ckhoản 1, Điều 28; khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1,
Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 33; Điều 59 Luật
Hôn nhân gia đình năm 2014 khoản 3 Điều 144 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm đ
khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phạm Đình L về việc chia tài
sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn.
- Giao cho anh Phạm Đình L được sở hữu toàn bcác loại tài sản là: Vật kiến
trúc; Vật dụng Cây cối (n trong biên bản định giá + phụ lục kèm theo ngày
05/7/2024). Tổng giá trị các loại tài sản anh Phạm Đình L được hưởng là:
269.587.280 đồng.
- Anh Phạm Đình L nghĩa vụ giao lại cho chị Bùi Thị T số tiền 114.628.640
đồng, là số tiền chênh lệch tài sản mà chị T được hưởng (theo yêu cầu chia của chị T).
Về án phí: Miễn toàn bộ án phí chia tài sản chung sau khi ly hôn cho anh Phạm
Đình L chị i Thị T. Trả lại cho anh Phạm Đình L số tiền 625.000 đồng mà anh L
đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phia, lệ phí Tòa án số 0006567, ngày 02/5/2024 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành xong khoản tiền anh Phạm Đình L phải trả cho chị i Thị T nêu trên hàng
tháng bên phải thi nh án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2, Điều 357 Bộ luật Dân sựtương ứng với thời gian
chưa thi hành án.
Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 9 Luật Thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Về án phí phúc thẩm: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Toà án, miễn án phí dân sự phúc thẩm
cho anh Phạm Đình L.
Các quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao;
- VKSND tỉnh Hà Tĩnh;
- TAND huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh;
- Chi cục THADS huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự;
- Lưu HSVA.
Bùi Quang Năng
Tải về
Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất