Bản án số 02/2025/DS-ST ngày 22/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 02/2025/DS-ST ngày 22/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 3 - Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng
Số hiệu: 02/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Gia đình ông Hoàng Quốc S có khu đất rừng liền nhà ở được tiếp quản và quản lý từ ông bà, bố mẹ từ năm 1957 liên tục không bỏ hoang năm nào, có tổng diện tích khoảng 1.700 m2, nằm trong thửa đất số 543, tờ bản đồ số 01 đất rừng thị trấn có địa chỉ tại
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 3 – CAO BẰNG
Bản án số: 02/2025/DS - ST
Ngày: 22/8/2025
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 3 - CAO BẰNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đinh Quang Toàn
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Mã Thị Huệ.
Ông Hoàng Văn Học
- Thư phiên tòa: Bà La Thị Huệ - Thư ký Tòa án nhân dân khu vực 3 -
Cao Bằng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 3 - Cao Bằng: Nông Thị
Huyền Anh - Kiểm sát viên.
Trong ngày 22 tháng 8 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân khu vực 3 -
Cao Bằng, xét xử công khai vụ án thụ số 13/2024/TLST - DSST ngày 01
tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số 05/2025/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 7 năm 2025 giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hoàng Quốc S, sinh năm 1968; Địa ch: Xóm V, xã T,
tỉnh Cao Bằng; có mặt.
- Bị đơn:
1. Ông Hoàng Văn C, sinh năm 1969.
2. Ông Hoàng Văn Đ, sinh năm 1967.
Cùng địa ch: Xóm V, xã T, tỉnh Cao Bng; đều có mt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. UBND xã T, tỉnh Cao Bằng;
2. Bà Lê Thị X, sinh năm 1976.
3. Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1960.
4. Bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1966.
5. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1960.
Cùng địa chỉ: Xóm V, xã T, tỉnh Cao Bằng.
2
6. Hoàng Thị T2, sinh năm 1959; địa chỉ: Thôn T, phường B, tỉnh Thái
Nguyên.
Có mặt bà Lê Thị X, Hoàng Thị T, Hoàng Thị T1, Hoàng Thị T2.
Vắng mặt: Ủy ban nhân dân T, Nguyễn Thị P (đều đơn xin xét
xử vắng mặt).
- Người làm chứng: Ông Hoàng Văn L, sinh năm 1962. Địa chỉ: Xóm V,
xã T, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện qtrình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Hoàng
Quốc S trình bày:
Gia đình ông Hoàng Quốc S khu đất rừng liền nhà ở được tiếp quản
quản lý từ ông bà, bố mẹ từ năm 1957 liên tục không bỏ hoang năm nào, có tổng
diện tích khoảng 1.700 m
2
, nằm trong thửa đất số 543, tờ bản đồ số 01 đất rừng
thị trấn có địa chỉ tại: Xóm N, thị trấn H, T, Cao Bằng (nay là xóm V, xã T, tỉnh
Cao Bằng); tứ cận tiếp giáp: Phía đông tiếp giáp đất nhà ông S; phía tây
tiếp giáp rừng vườn ông Hoàng Văn Đ; phía nam tiếp giáp rừng ông Hoàng
Văn L1; phía bắc tiếp giáp ruộng ông Hoàng Văn Đ Hoàng Văn C. Đến năm
2001, do nhầm lẫn các cơ quan cấp trên đã cấp nhầm toàn bộ số đất nói trên của
gia đình ông vào sổ đỏ đất lâm nghiệp của hộ ông Hoàng Văn D (bố ông Hoàng
Văn Đ, Hoàng Văn C). Từ đó gia đình ông C sang chặt phá và trồng cây xa mộc
trên đất rừng nhà ông. Gia đình ông S đã nhiều lần làm đơn lên Ủy ban nhân dân
T để giải quyết. Quá trình giải quyết các quan thẩm quyền đã tách ra
giải quyết phần đất đất rừng riêng, đến năm 2023 đã giải quyết xong phần
đất ở.
Tại đơn khởi kiện ông Hoàng Quốc S yêu cầu ông Hoàng Văn C, Hoàng
Văn Đ trả lại phần đất rừng tranh chấp nêu trên cho gia đình ông.
Tại bản tự khai quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Hoàng Văn Đ,
Hoàng Văn C trình bày:
Không đồng ý với yêu cầu của ông Hoàng Quốc S : Phần đất tranh chấp
diện tích khoảng 1.700 m
2
nằm trong thửa 543, tờ bản đồ số 01 (nay thửa
490, tờ bản đồ số 3 diện tích 9.025,5 m
2
) địa chỉ tại xóm V, T, tỉnh Cao
Bằng do ông Hoàng Văn T3 (còn gọi ông Hoàng Văn P1 ông nội ông C,
ông Đ) mua lại với ông Hoàng Văn Đ1. Từ đó gia đình đã quản khai thác
ổn định, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tuy nhiên do cấp trùng
lên diện tích đất của gia đình khác nên đã thu hồi. Ông C ông Đ đã trồng
các loại cây trên khu đất này được hơn 30 năm. Tại biên bản họp xóm năm
2003, các cụ cao niên trong xóm đã xác nhận thửa đất trên của gia đình ông.
3
Khi xảy ra tranh chấp hai bên đã được hòa giải và Ủy ban nhân dân thị trấn T đã
xác định nguồn gốc thửa đất do ông Hoàng Văn T3 mua với ông Hoàng Văn
Đ1. Gia đình ông C, ông Đ đã quản , sử dụng lâu dài được nhà nước cấp
tiền khoanh nuôi rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Gia đình ông S
không quản lý, sử dụng phần diện tích đất tranh chấp. Việc ông S khởi kiện
không có căn cứ.
Quá trình giải quyết vụ án những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trình bầy:
Thị X: Năm 1993, X về làm vợ ông Hoàng Quốc S đã sinh
sống trên khu đất khu đất đang tranh chấp, cùng mẹ chồng quản khu rừng.
Đến năm 1995, nhà bà X sửa nhà, thì chủ yếu chặt cây vầu ở rừng này. Đến năm
2002, gia đình bà X m nhà xuống bên dưới đường, có thuê máy về múc đất thì
gia đình nhà ông Đ không cho làm cho rằng đó đất nhà ông Đ. Khi ông Đ,
ông C sang chặt phá cây vầu trồng cây sa mộc, gia đình can ngăn, gọi
Công an xóm, Công an xã và phản ánh với các cấp chính quyền nhưng chưa giải
quyết xong. Về nguồn gốc thửa đất X được nghe mẹ chồng nói đất được
thừa kế từ ông để lại, bìa đỏ được cấp cho ông Hoàng Văn D cũng đã bị thu
hồi vào năm 2009. Sự việc tranh chấp đã lâu, chưa giải quyết xong, bà X nhất trí
với ý kiến của ông S, đề nghị ông Đ, ông C trả lại phần đất tranh chấp cho gia
đình bà.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị T2, Hoàng Thị T,
Hoàng ThT1 khai: Nguồn gốc diện tích đất đang tranh chấp đúng như chú C,
chú Đ trình bầy. Đất do ông nội của các bà (ông T3) mua với ông Hoàng Văn Đ1.
Sau khi ông T3 chết Lục Thị Y (bà nội) quản lý, trồng cây trên thửa đất này.
Sau khi bố của các ông D phục viên về, gia đình vẫn quản , khai thác
trên thửa đất. Những năm 90 gia đình các đã trồng cây sa mộc trên thửa đất
này, việc ông S khởi kiện tranh chấp các bà không nhất trí. Việc bố, mẹ các bà để
cho chú C, chú Đ quản lý, sử dụng phần đất đang tranh chấp các nhất trí.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị P (vợ của ông Nông
Văn L2) khai nhận: Phần đất tranh chấp và phần đất của gia đình đã ranh
giới ràng, được các ông bà đào từ xưa, không tranh chấp gì. Về nguồn gốc
thửa đất tranh chấp và quá trình canh tác bà không biết.
Người làm chứng ông Hoàng Văn L trình bầy: Ông cháu của ông
Hoàng Văn Đ1, từ những năm 1930 ông Đ1 đã bán phần đất rừng tranh chấp
cho ông nội của ông Đ, ông C. Từ đó về sau đất do ai quản ông không nắm
được.
Tại Biên bản họp xóm ngày 04/11/2003 thành phần gồm các cụ cao
niên trong xóm, gia đình ông Hoàng Văn Đ, ông Hoàng Quốc S, kết quả cuộc
4
họp xác định nguồn gốc thửa đất tranh chấp là của ông nội ông Hoàng Văn Đ
ông Hoàng Văn P1 mua với ông Hoàng Văn Đ1.
Tại Báo cáo số 26/BC-TTr ngày 27/5/2010 của Ủy ban nhân dân huyện T
v việc xác minh tính hợp pháp việc cp giy chng nhn quyn s dụng đất s:
00108 ngày 26/12/2001, kết qu thẩm tra, xác minh như sau: Ông Hoàng Văn D
đơn xin đăng quyn s dụng đất rừng đ ngày 15/12/2000 đưc y ban
nhân dân thị trn H duyệt ngày 16/8/2001. S tha 234, diện tích 12.000 m
2
, t
bản đồ địa chính đất rng ca th trn H được các cấp thẩm quyền phê duyệt
ngày 07/7/2001. Qua xác minh thực tế ti hiện trường, đối chiếu vi bản đồ lâm
nghiệp đo năm 2001 thì số tha 234, diện tích 12.000 m
2
đã khoanh trờm lên đất
nhà vườn gia đình Ư ti tha s 29 diện tích 1.038,2 m
2,
t bản đồ s 46.
Do đó
Ủy ban nhân dân huyn T đã ra Quyết đnh s 1239/QĐ-UBND ngày 29
tháng 10 năm 2009 v vic thu hi Giy chng nhn quyn s dụng đt 00108
QSDĐ của ông Hoàng Văn D để cp li giy chng nhn quyn s dụng đt
mi.
vậy giy chng nhn quyn s dụng đt s 00108 QSDĐ ngày
26/12/2001 được cấp cho ông Hoàng Văn D không g tr pháp lý. Ngày
27/9/2004 ông Hoàng Văn D đơn xin cấp đổi Giy chng nhn quyn s
dụng đất; ngày 22/11/2004 Chủ tịch UBND duyệt; th trưởng quan địa
chính xác nhận vào ngày 10/6/2005 đã được cp giy chng nhn quyn s
dụng đất mới cho ông Hoàng Văn D, s H00923 (số seri AG 877891), thửa đất
số 543, diện tích 14.943 m
2
, tờ bản đồ số 01 đất rừng thị trấn H. Tuy nhiên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất này đã bị thu hồi theo quyết định số 1128/QĐ-
UBND ngày 06/10/2010 của Ủy ban nhân dân huyện T với do: Thửa đất 543
diện tích đất của hgia đình khác. Kết quả xác minh thực tế Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sH00932 thửa số 543, diện tích 14.943 m
2
vẫn cấp
trùng lên đất nhà và vườn nhà bà Ư.
Tại Biên bản hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất ngày 22/4/2022; Báo
cáo kết quả thẩm tra xác minh đơn kiến nghị giải quyết tranh chấp đất đai ngày
10/9/2024 xác định: vị trí đất tranh chấp nằm trong thửa đất số 543, tờ bản đồ số
01, diện tích tranh chấp khoảng 1.700 m
2
. Tại phần đất tranh chấp cây vầu,
cây xa mộc đã lớn, phía bên ranh giới giáp với nhà ông Nông Văn L2 thể
hiện bằng đào rãnh bậc ta luy, một bên giáp với thửa đất nhà vườn của
ông Hoàng Quốc S. Về
nguồn gốc thửa đất tranh chấp do ông nội ông Hoàng
Văn Đ tên là Hoàng Văn P1 ã chết) mua lại với ông Hoàng Văn Đ1 ã chết)
tại xóm N (nay là xóm V). Khoảng năm 1957, ông nội ông Hoàng Quốc S đã
dựng nhà trên thửa đất được sử dụng và quản lý liên tục đến năm 2003 thì xảy ra
tranh chấp. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số seri AG877891 cấp cho thửa
5
đất số 543, diện tích 14.943 m
2
, tờ bản đồ số 01 bị thu hồi do cấp trùng diện tích
đất ở của người khác.
Tại Báo cáo kết quả thẩm tra xác minh đơn khiếu nại của ông Hoàng
Quốc S ngày 15/12/2015 xác định: Phần diện tích đất rừng tranh chấp gia đình
ông S quản đến năm 2003; từ năm 2004, gia đình ông Hoàng Văn Đ đã trồng
cây xa mộc và quản lý cho đến nay.
Tại biên bản làm việc ngày 25/6/2025, UBND thị trấn T cho biết: tiền bảo
vệ rừng tự nhiên đối với thửa đất số 543, tờ bản đồ số 01, diện tích 14.943m
2
tại
xóm V, thị trấn T do ông Hoàng Văn D nhận tiền năm 2019 với số tiền 440.000
đồng. Sau năm 2019 không nằm trong danh sách chi trả.
- Ti Bn bn Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 27/5/2025 c định:
Kết quả thẩm định tại chỗ: Phần đất tranh chấp giữa ông Hoàng Quốc S
với ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C diện tích 1.744,8 m
2
nằm trong thửa đất
số 543, tờ bản đồ số 01, diện tích 14.943 m
2
(nay thửa 490, tbản đồ số 3
diện tích 9.025,5 m
2
), địa chỉ tại: Xóm V, thị trấn T (nay T), tỉnh Cao
Bằng. tứ cận tiếp giáp: Phía đông giáp phần đất nền nhà của ông Hoàng
Quốc S và ông Hoàng Văn Đ đã được Tòa án giải quyết; phía tây giáp phần đất
rừng của gia đình ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C; phía nam giáp phần đất
rừng của gia đình ông Nông Văn L2, được ngăn cách bằng đường rãnh hào sâu
khoảng 30 cm; phía bắc giáp thửa đất số 53, 55, 57 tờ bản đồ số 95 của gia đình
ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C, được ngăn cách bằng đường rãnh hào sâu
khoảng 30 cm. Hiện trạng trên đất: Trên đất trồng nhiều cây vầu, 01 cây hồi trên
15 năm tuổi, 02 cây sâu sâu, 185 cây sa mộc (gồm: 80 cây chu vi tại vị trí
1,3m của cây 0,15m, cao 12 m; 55 cây chu vi tại vị trí 1,3m của cây là
0,65m, cao 12 m; 50 cây có chu vi tại vị trí 1,3m của cây là 0,45m, cao 12 m).
Kết quả định giá tài sản: Tài sản trên đất toàn bộ số cây trên thửa đất
tranh chấp đã kiểm đếm tại Biên bản định giá tài sản ngày 27/3/2025 giá trị:
118.591.900 đồng.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Các bị đơn không nhất trí với u cầu của nguyên đơn. Nguyên đơn từ i
khác chuyển đến và ở nhờ trên phần đất của ông nội bị đơn. Việc nguyên đơn cho
rằng phần đất tranh chấp do ông bà để lại, nhưng nguyên đơn chỉ nghe bố mẹ nói
lại, không giấy tờ chứng minh. Về nguồn gốc đất đã được các cụ cao niên
xác nhận của gia đình bị đơn; gia đình bị đơn đã quản lý, sử dụng từ thời ông
bà. Quá trình quản lý, sử dụng gia đình bị đơn cũng được chính quyền chi trả tiền
6
trông nom, quản rừng, được chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, việc bị thu hồi chdo cấp trùng lên phần đất ở của người kc.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 3 - Cao Bằng phát biểu quan
điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án:
Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh (nay là Tòa án nhân dân khu vực 3 -
Cao Bằng) thực hiện giải quyết tranh chấp là đúng theo thẩm quyền quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; xác định quan hệ tranh chấp
tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ luật Tố tụng
dân sự phù hợp với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; quá trình giải quyết vụ
án Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự; các đương sự thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật.
Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xử áp dụng
khoản 9 Điều 26, Điều 35, 39, 147, 157, 165, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015; Điều 164, 221 BLDS 2015; Điều 100, 203 Luật Đất đai 2013
điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 về án phí lệ phí, tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn; bị đơn ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C được quyền quản lý, sử
dụng diện tích đất tranh chấp 1.744,8 m
2
; buộc nguyên đơn phải chịu toàn bộ chi
phí xem xét thẩm định, định giá tài sản; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự theo
quy định của pháp luật; đương sự quyền kháng cáo bản án theo quy định
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát
viên và những người tham gia tố tụng khác Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn Hoàng Quốc S khởi kiện tranh chấp đất rừng
đối với bị đơn Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C. Thửa đất tranh chấp địa chỉ tại:
Xóm V, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm V, T, tỉnh Cao
Bằng). Do đó, theo quy định tại khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm
c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng (nay Tòa án
nhân dân khu vực 3 – Cao Bằng).
[2] Về nội dung
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Nguyên đơn cho rằng phần đất tranh chấp là do ông bà để lại, nguyên đơn
đã tiếp quản quản từ năm 1957 cho đến nay vẫn canh tác liên tục. Tuy
7
nhiên, nguyên đơn không làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
không chứng minh được quá trình quản lý, s dụng đất ổn định, liên tc; không
cung cấp được thêm tài liệu nào chứng minh nguồn gốc đất thuộc sở hữu của
mình; hcủa nguyên đơn cũng không nằm trong danh sách nhận tiền bảo vệ
rừng tự nhiên hàng năm. Vì vậy, việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại phần đất
tranh chấp cho gia đình nguyên đơn là không có căn cứ.
Về nguồn gốc thửa đất 543, tờ bản đồ số 01, diện tích 14.943 m
2
(nay
thửa 490, tờ bản đồ số 3 diện tích 9.025,5 m
2
) địa chỉ tại xóm V, xã T, tỉnh
Cao Bằng: Tại Biên bản họp xóm ngày 04/11/2003; Biên bản hòa giải tranh
chấp quyền sử dụng đất ngày 22/4/2022; Báo cáo kết quả thẩm tra xác minh đơn
kiến nghị giải quyết tranh chấp đất đai ngày 10/9/2024; Báo cáo kết quả thẩm tra
xác minh đơn khiếu nại của ông Hoàng Quốc S ngày 15/12/2015; lời khai của
người làm chứng Hoàng Văn L đều xác nhận nguồn gốc thửa đất là do ông
Hoàng Văn P1 là ông nội ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C mua với ông Hoàng
Văn Đ1; trên thực tế hộ gia đình ông Hoàng Văn D đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lần đầu năm 2001 sau đó đã bị thu hồi; được cấp lại lần
hai vào năm 2009 nhưng tiếp tục bị thu hồi với do cấp trùng lên thửa đất của
người khác. Như vậy khẳng định được nguồn gốc đất tranh chấp thuộc hộ gia
đình ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C. Việc bị thu hồi do quan chức ng
cấp trùng lên phần đất ở của người khác.
Về quá trình quản lý, sử dụng: Từ nguồn gốc thửa đất xác định được, gia
đình bị đơn vẫn khai thác, quản cả phần đất rừng tranh chấp. Từ năm 1995,
gia đình ông Hoàng Văn Đ, Hoàng n C đã trông cây sa mộc trên phần đất
tranh chấp; m 2019, ông Hoàng Văn D được nhận tiền bảo vệ rừng tự nhiên
đối với thửa đất số 543, tờ bản đồ số 1, diện tích 14.943 m
2
.
Như vậy thấy được
gia đình ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C vẫn liên tục quản lý, khai thác đối với
thửa đất nêu trên.
Diện tích đất tranh chấp 1.744,8 m
2
nằm trong thửa đất số 543, tờ bản đồ
số 01 (nay thửa 490, tờ bản đồ số 3 diện tích 9.025,5 m
2
). Do đó, xác định
diện tích đất tranh chấp thuộc quyền quản lý, sử dụng của bị đơn là có căn cứ.
[3] Về chi phí tố tụng:
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn yêu cầu xem xét thẩm định tại
chỗ định giá tài sản trên đất. Trong đó chi phí xem xét thẩm định tại chỗ
7.565.000 đồng; chi phí định giá tài sản: 1.700.000 đồng. Tổng chi phí tố tụng
là: 9.265.000 đồng.
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên
đơn phải chịu chi phí thẩm định, định giá 9.265.000 đồng.
8
[4] Về án phí:
Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải
chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Đương sự quyền kháng cáo bản án theo quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 164, 221 Bộ luật Dân sự 2015;
- Căn cứ Điều 26, 100, 203 Luật Đất đai năm 2013;
- Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều
39; Điều 147; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 165; Điều 227, 228, 271, 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 1 Điều 26; điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30 tháng 12 năm
2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ngun đơn ông Hng Quốc S.
2. Bị đơn ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C được quyền quản lý, sdụng
diện tích đất tranh chấp là 1.744,8 m
2
thuộc thửa đất số 543, tờ bản đồ số 01 (nay
là thửa 490, tờ bản đồ số 3 diện tích 9.025,5 m
2
), có địa chỉ tại xóm V, xã T, tỉnh
Cao Bằng. tứ cận tiếp giáp như sau: Phía đông giáp phần đất nền nhà của
ông Hoàng Quốc S ông Hoàng Văn Đ đã được Tòa án giải quyết; phía tây
giáp phần đất rừng của gia đình ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C; phía nam giáp
phần đất rừng của gia đình ông ng Văn L2, được ngăn cách bằng đường rãnh
hào sâu khoảng 30 cm; phía bắc giáp thửa đất số 53, 55, 57 tờ bản đồ số 95 của
gia đình ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C, được ngăn cách bằng đường rãnh hào
sâu khoảng 30 cm.
Ông Hoàng Văn Đ, Hoàng Văn C trách nhiệm liên hvới quan chức
năng làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
3. Về chi phí tố tụng:
Nguyên đơn ông Hoàng Quốc S phải chịu 9.265.000 đồng chi phí tố tung
(xác nhận nguyên đơn đã thực hiện xong).
4. Về án phí:
9
Ông Hoàng Quốc S phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân
sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai thẩm. Đương sự mặt tại
phiên tòa quyn khángo bản án trong thời hạn 15 ngày kể tngày tuyên án.
Đương svắng mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- Tòa án tỉnh Cao Bằng;
- VKSND khu vực 3 - Cao Bằng;
- Thi hành án DS tỉnh Cao Bằng;
- UBND xã Trà Lĩnh;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn.
TM HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Quang Toàn
Tải về
Bản án số 02/2025/DS-ST Bản án số 02/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 02/2025/DS-ST Bản án số 02/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất