Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST ngày 28/02/2025 của TAND huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST ngày 28/02/2025 của TAND huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Càng Long (TAND tỉnh Trà Vinh) |
Số hiệu: | 01/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/02/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CÀNG LONG
TỈNH TRÀ VINH
Bản án số: 01/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 28-02-2025
V/v ly hôn và tranh chấp về nuôi con
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÀNG LONG, TỈNH TRÀ VINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thanh Thảo.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Đoàn Trung Thống.
Ông Phạm Văn Ngài.
- Thư ký phiên tòa: Bà Quách Thúy Lam – Thư ký của Tòa án nhân dân
huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh tham
gia phiên tòa: Ông Phạm Văn Tính – Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Càng Long,
tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 455/2024/TLST-HNGĐ
ngày 24 tháng 10 năm 2024 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 02
năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2025/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 02
năm 2025 và Thông báo về việc dời ngày mở phiên tòa số 05/TB-HĐXXST ngày
25 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ánh T, sinh năm: 2001 (Có đơn yêu cầu xét
xử vắng mặt).
Địa chỉ: ấp H, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm: 1996 (Vắng mặt).
Địa chỉ: khóm H, thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 09-8-2024, các bản tự khai ngày 15-11-2024, 22-
11-2024 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ánh T
trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T1 tự tìm hiểu quen biết nhau, bắt đầu
chung sống như vợ chồng từ năm 2017, được cha mẹ hai bên chấp nhận, không làm
lễ cưới nên không có nữ trang cưới. Nhưng chị và anh T1 có đăng ký kết hôn tại
Ủy ban nhân dân thị trấn C vào ngày 28-6-2019. Thời gian đầu vợ chồng chung
sống có hạnh phúc. Nhưng từ đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, do anh T1
2
nghiện ma túy, chị và gia đình bên nhà chồng không hòa thuận, anh T1 còn đánh
chị, chị khuyên ngăn mà anh không từ bỏ ma túy, sau đó anh T1 bị bắt đi cai
nghiện, nên chị và anh T1 đã sống ly thân nhau từ tháng 12 năm 2019 đến nay. Hết
thời gian cai nghiện anh T1 trở về, vợ chồng không thể hàn gắn được, thường hay
cự cải. Đến nay tình cảm vợ chồng không còn, nên chị khởi kiện xin được ly hôn
với anh Nguyễn Văn T1.
Về con chung: Chị và anh Nguyễn Văn T1 chỉ có một con chung là cháu
Nguyễn Thị Ngọc T2, sinh ngày 24-8-2018. Thời gian chị và anh T1 sống ly thân
đến nay con chung sống với anh T1 và gia đình bên nội. Khi ly hôn, chị đồng ý
giao quyền nuôi dưỡng con chung cho anh T1, không yêu cầu giải quyết về cấp
dưỡng nuôi con.
Tài sản chung và nợ chung phải thu, phải trả: Chị xác định không có, không
yêu cầu Tòa án giải quyết.
Chị xác định ngoài những giấy tờ đã nộp có trong hồ sơ vụ án, chị không nộp
thêm chứng cứ. Chị cũng không thuộc diện gia đình chính sách nào.
Tại bản tự khai ngày 15-11-2024 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn
anh Nguyễn Văn T1 trình bày:
Anh và chị Nguyễn Thị Ánh T đi đến hôn nhân do tự quen biết nhau, chung
sống vào khoảng năm 2017, không làm lễ cưới, nhưng có đăng ký kết hôn theo quy
định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân thị trấn C. Thời gian chung sống hạnh phúc
được đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, do chị T có tình cảm nam nữ với
người khác, tự ý bỏ đi khỏi nhà chồng và sống ly thân với anh cho đến nay. Nay chị
T xin ly hôn, thì anh không đồng ý.
Về con chung: Là cháu Nguyễn Thị Ngọc T2, sinh ngày 24-8-2018, đang
sống chung với anh. Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn, thì anh yêu cầu nuôi
dưỡng con chung, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung phải thu, phải trả: Anh thống nhất xác định
không có, nên không yêu cầu giải quyết.
Anh không nộp chứng cứ gì cho Tòa án xem xét, anh cũng không thuộc diện
gia đình chính sách nào.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị T và bị đơn anh T1 đều vắng mặt,
nên không có lời trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh tham gia
phiên tòa phát biểu ý kiến: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi Tòa thụ lý đến
thời điểm này Thẩm phán đã chấp hành đúng theo Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân
sự, đảm bảo về thẩm quyền, quan hệ tranh chấp, xác định tư cách người tham gia tố
tụng, thu thập chứng cứ, thời gian ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, gửi hồ
sơ cho Viện kiểm sát, cấp và tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng đã thực hiện đầy
đủ và đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Phiên tòa hôm nay, Hội đồng
xét xử thực hiện đầy đủ và đúng theo trình tự pháp luật quy định của phiên tòa sơ
thẩm. Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án
cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố
3
tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự; Đối với bị đơn chưa thực hiện
đúng quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Vị đề nghị áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228,
238 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 19, 51, 54, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật
Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn
Thị Ánh T: Cho chị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn T1; Về con chung: Giao
cháu Nguyễn Thị Ngọc T2, sinh ngày 24-8-2018 cho anh T1 tiếp tục nuôi dưỡng;
Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị T, anh T1 chưa yêu cầu giải quyết, nên không xem
xét; Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung mà không ai
được cản trở người đó thực hiện quyền này. Về tài sản chung và nợ chung: Chị T
và anh T1 cùng xác định không có, nên không xem xét. Ngoài ra, V đề nghị các
đương sự có nghĩa vụ chịu án phí hôn nhân sơ thẩm, các đương sự được quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân huyện Càng
Long nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Ánh T là nguyên đơn có đơn yêu cầu
xét xử vắng mặt. Đối với anh Nguyễn Văn T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử vụ án nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, căn cứ
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành phiên tòa xét xử vụ án vắng mặt các
đương sự.
[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Nguyễn Văn T1 chung sống
như vợ chồng từ năm 2017, sau đó đăng ký kết hôn xác lập hôn nhân hợp pháp tại
Ủy ban nhân dân thị trấn C vào ngày 28-6-2019. Thời gian chung sống hạnh phúc
được đến năm 2019 (theo chị T xác định), năm 2020 (theo anh T1 xác định) thì
giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Chị T cho rằng do việc sống chung gia đình
chồng không hòa thuận, anh T1 nghiện ma túy và đánh chị, nên chị mới rời khỏi
nhà chồng đến nay. Còn anh T1 cho rằng do chị T có tình cảm nam nữ với người
khác rồi tự ý bỏ đi đến nay. Như vậy, anh chị đã sống ly thân nhau hơn 05 năm mà
không hàn gắn lại được. Do tình cảm vợ chồng không còn, nên chị T cương quyết
xin ly hôn với anh T1, nhưng anh T1 không đồng ý.
[3] Xét thấy gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người,
là môi trường quan trọng để hình thành và giáo dục nhân cách con người, gia đình
tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Do đó, vợ chồng phải chung
thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Chị T và anh T1 đã có thời
gian chung sống hạnh phúc với nhau. Quá trình sống chung, có những lúc chưa
thống nhất về quan điểm cuộc sống, về cách ứng xử giao tiếp với nhau, đáng lẽ ra
4
anh chị phải biết tự điều chỉnh hành vi bản thân, xử sự có lý, có tình, cùng góp ý,
tôn trọng lẫn nhau để tìm cách giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong cuộc sống hôn
nhân một cách tốt đẹp nhất, để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nhưng khi bất hòa xảy
ra, vợ, chồng không kiềm chế được hành vi và cách cư xử của bản thân, dẫn đến cự
cải, tự ý sống ly thân, bỏ mặc nhau, làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng phai
nhạt và dần mất đi.
[4] Tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Vợ chồng có
nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ
sống chung với nhau,…”; Điều 21 Luật Hôn nhân và gia đình quy định “Vợ, chồng
có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau”.
Nhưng chị T, anh T1 đã không thực hiện được các nghĩa vụ này với nhau.
[5] Qua xác minh của Tòa án với chính quyền địa phương khóm H, thị trấn C
cho biết anh T1 là đối tượng nghiện ma túy thuộc diện quản lý của địa phương, anh
T1 có vợ là chị T, vợ chồng họ có sinh sống tại địa phương khóm 8 chung nhà với
cha mẹ ruột của anh T1; Mặc dù chính quyền địa phương không nắm rõ mâu thuẫn
hôn nhân giữa chị T với anh T1, nhưng có biết chị T đã khỏi nhà chồng thời gian
cách nay đã lâu, chị T và anh T1 chỉ có 01 con chung do gia đình bên anh T1 hỗ trợ
chăm sóc cho đến nay.
[6] Cha ruột chị T là ông Nguyễn Quốc V1 xác nhận trong bản tự khai ngày
22-11-2024 phần trình bày của chị T về mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T với anh T1
là sự thật.
[7] Ngày 15-11-2024, Tòa án mời hòa giải để chị T, anh T1 có cơ hội gặp
nhau trao đổi về tình trạng hôn nhân giữa hai người. Anh chị có mặt, nhưng hòa
giải đoàn tụ không thành, chị T cương quyết ly hôn, anh T1 xin đoàn tụ. Tòa án
tiếp tục mời hòa giải ngày 22-11-2024 nhưng anh T1 vắng mặt không lý do, không
thể hiện mong muốn hòa giải đoàn tụ với chị T.
[8] Theo Thông báo yêu cầu giao nộp chứng cứ của Tòa án, anh T1 trực tiếp
ký nhận. Nhưng cho đến phiên tòa hôm nay, anh T1 vẫn không cung cấp được
chứng cứ gì để chứng minh khả năng đoàn tụ hạnh phúc với chị T.
[9] Từ những nhận định trên, thấy rằng đời sống chung của vợ chồng chị T,
anh T1 đang trong tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc
sống chung không thể kéo dài. Việc chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn
và cương quyết ly hôn với anh T1 là có cơ sở, phù hợp quy định tại Điều 56 Luật
Hôn nhân và gia đình, nên cần chấp nhận yêu cầu, cho chị T được ly hôn với anh
T1.
[10] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Nguyễn Văn T1 chỉ có
một con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T2, sinh ngày 24-8-2018, thời gian chị T và
anh T1 sống ly thân thì con chung sống ổn định bên nhà nội cùng với anh T1. Khi
ly hôn, chị T đồng ý giao con cho anh T1 nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi
con mà tự lo cho con theo khả năng. Đối với anh T1 trong bản tự khai và ý kiến
trình bày tại biên bản hòa giải do Tòa án lập ngày 15-11-2024 thì trường hợp Tòa
án giải quyết ly hôn anh đồng ý nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị T cấp
5
dưỡng nuôi con. Do đó, cần xử cho anh T1 được quyền nuôi con là phù hợp quy
định pháp luật. Vì chị T, anh T1 chưa đặt ra yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi
con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[11] Về tài sản chung: Tòa án đã giải thích theo quy định tại Điều 59 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014, nhưng chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Nguyễn Văn
T1 thống nhất xác định không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết, nên Hội
đồng xét xử miễn xét.
[12] Về nợ chung: Do chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Nguyễn Văn T1 cùng
thống nhất xác định không nợ ai, cũng không ai nợ anh chị, không yêu cầu giải
quyết, nên Hội đồng xét xử miễn xét.
[13] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ánh T có nghĩa vụ nộp
theo quy định pháp luật.
[14] Xét quan điểm của Vị Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân
huyện Càng Long là có căn cứ chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 70, 144, 147, 227, 228, 238, 266, 271, 273
của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 19, 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật
Hôn nhân và gia đình; Điều 17 Luật phí và lệ phí; Điều 27, Tiểu mục 1.1 Mục 1
Phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ánh T.
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Ánh T được ly hôn với anh
Nguyễn Văn T1.
2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T2, sinh ngày 24-8-
2018 cho anh Nguyễn Văn T1 nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Nguyễn Văn T1
chưa đặt ra yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom
con chung mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng
việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn
chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành
viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Nguyễn Văn T1 thống
nhất xác định không có, không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
6
4. Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ánh T và anh Nguyễn Văn T1 thống nhất
xác định không nợ ai, cũng không ai nợ anh chị, không yêu cầu, nên Hội đồng xét
xử không xem xét.
5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ánh T phải chịu 300.000đ
(Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba
trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai số 0004695 ngày 22 tháng 10 năm 2024 tại
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Càng Long.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà
có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc
được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh;
- VKSND huyện;
- Chi cục THADS huyện;
- UBND thị trấn Càng Long;
- Lưu: VT; hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thanh Thảo
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm