Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST ngày 09/01/2025 của TAND huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST ngày 09/01/2025 của TAND huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Krông Bông (TAND tỉnh Đắk Lắk) |
Số hiệu: | 01/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | chị và anh H kết hôn từ năm 2018, chung sống hạnh phúc đến năm 2020 mới đăng ký kết hôn, nguyên nhân là vợ chồng bất đồng quan điểm không có tiếng nói chung nên xảy ra mâu thuẫn gia đình, một phần cũng do kinh doanh làm ăn không thuận lợi nên dẫn đến nợ nần, từ đó vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, 02 mẹ con về bên ngoại ở và anh H làm ở Quảng Nam, sau đó chuyển đến thành phố Đà Lạt làm ăn. Sau khi thông báo phiên họp và hòa giải thì chị P cũng có gọi điện thoại cho anh H thông báo để về giải quyết việc ly hôn nhưng anh H nói không về được, muốn giải quyết ly hôn thì chị tự giải quyết. Chị P vẫn giữ nguyên quan điểm là xin được ly hôn với anh Lê Đình H vì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn gia đình, vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay nên không có khả năng đoàn tụ. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KRÔNG BÔNG
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 01/2025/HNGĐ-ST
Ngày 09 – 01 – 2025
V/v: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Chu Văn Hồi.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Trương Thị Lệ Chi; Ông Phan Văn Hòe.
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Nga – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Krông
Bông.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Bông tham gia phiên tòa: Ông
Lâm Văn Tiến – Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 01 năm 2025, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Krông
Bông, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 130/2024/TLST-
HNGĐ, ngày 23/7/2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số 31/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/12/2024; Quyết định hoãn
phiên tòa số 51/2024/QĐST-HNGĐ ngày 23/12/2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lê Thị P, sinh năm 1990
Địa chỉ: Thôn B, xã Hòa P, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
Bị đơn: Anh Lê Đình H, sinh năm 1989
Địa chỉ: Thôn S, xã Hòa P, huyện Krông B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 16/8/2023, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất
trình nguyên đơn chị Lê Thị P, trình bày:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh Lê Đình H chung sống với nhau từ năm
2018, đến năm 2020 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa P, huyện Krông B, tỉnh
Đắk Lắk. Sau khi đăng ký kết hôn, chúng tôi chung sống tại tỉnh Quảng Nam, vợ

2
chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn. Chúng tôi kinh
doanh điện lạnh nhưng do anh H ham ăn chơi quá đà mà không quan tâm đến việc
kinh doanh nên dẫn đến thua lỗ, từ đó vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và không có tiếng
nói chung. Sau đó tôi và con về bên ngoại ở xã Hòa P từ tháng 9 năm 2021 đến nay,
anh H ở lại tỉnh Quảng Nam một thời gian sau đó anh H chuyển đến thành phố Đà
Lạt sinh sống đến nay, từ khi tôi về bên ngoại sinh sống anh H cũng có về thăm mẹ
con được mấy lần, từ đầu năm 2022 đến nay anh H cũng có đến thăm con được một
số lần nhưng hầu như không quan tâm gì đến vợ con và thỉnh thoảng về thăm cho con
được một ít tiền nhưng không đáng kể, tôi có nói chuyện với anh Hải nhiều lần là vợ
chồng cùng về chung sống ở Hòa P để cùng nhau làm ăn nuôi con nhưng anh H không
đồng ý. Vợ chồng đã chính thức không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022
đến nay. Tôi xác định vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa vì không còn chung
sống với nhau đã lâu, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không
đạt được nên đề nghị Tòa án nhân dân huyện Krông Bông giải quyết cho tôi được ly
hôn với anh Lê Đình H.
Tại bản tự khai ngày 31/7/2024, bị đơn anh Lê Đình H trình bày: Tôi và cô Lê
Thị P kết hôn từ năm 2020. Sau khi đăng ký kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc
được một thời gian, chúng tôi làm ăn kinh doanh không được thuận lợi nên dẫn đến
nợ nần, cộng với việc chúng tôi có một đứa con nên tôi cho vợ con về bên ngoại ở xã
Hòa P sinh sống, còn tôi vẫn ở lại tỉnh Quảng Nam làm việc, do công việc không được
thuận lợi nên tôi chuyển về Đà Lạt làm, sau đó tôi cũng về bên ngoại thăm vợ con
nhưng không đều vì bận công việc, trong thời gian 20 ngày trở lại đây vợ chồng tôi
có những lời nói không được đúng cho lắm nên vợ tôi đòi ly hôn. Tôi không đồng ý
ly hôn, tôi yêu cầu ly thân một năm để hai vợ chồng suy nghĩ rồi ngồi lại nói chuyện
xem có chung sống được với nhau nữa hay không, để giải quyết việc hai bên nội
ngoại.
[2] Về con chung: Chị P và anh H thống nhất khai có một người con chung,
cháu tên Lê Đình Anh Q, sinh ngày 10/8/2020.
Khi ly hôn, chị Lê Thị P có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi dưỡng con
chung. Anh H không đồng ý ly nên chưa đặt ra để giải quyết
[3] Về cấp dưỡng: Chị P chưa yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Tại bản tự khai và biên bản làm việc khác chị
P đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3
Bị đơn anh Lê Đình H không hợp tác nên không tiến hành hòa giải được.
Qua xác minh tại chính quyền địa phương: Anh Lê Đình H hiện vẫn còn đăng
ký hộ khẩu thường trú tại thôn S, xã Hòa P, huyện Krông B. Hiện nay anh H không
có mặt tại địa phương, đang đi làm xa nhưng vẫn thường xuyên về thăm bố mẹ và
con.
Thông qua Văn phòng Thừa phát lại, Tòa án đã gửi Thông báo về phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Biên bản về kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho người thân của anh H là ông Lê
Đình D (bố), Lê Việt H và Lê Đình U (em trai). Tuy nhiên, anh Lê Đình H đều vắng
mặt không có lý do nên không tiến hành hòa giải được. Tòa án đã trực tiếp liên lạc
qua điện thoại theo số điện thoại chị P cung cấp, trao đổi qua điện thoại, tòa án đã
thông báo cho anh H đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh H nói rằng có về Tòa án để giải làm việc thì
anh cũng không đạt được nguyện vọng của mình nên không về, tòa án muốn làm gì
thì làm.
Theo biên bản làm việc bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà là mẹ của anh H, có nhận
được một số văn bản của Tòa án, sau đó có gọi điện thoại thông báo cho con trai là
Lê Đình H, qua điện thoại anh H nói chị P tự giải quyết đơn phương, anh bận việc
không về được. Hiện nay chị P đang ở bên ngoại, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn
nhưng nguyên nhân gì thì bà H không rõ, bà có động viên để hai vợ chồng đoàn tụ
nhưng chị P kiên quyết ly hôn.
Tại phiên tòa hôm nay, chị P trình bày: chị và anh H kết hôn từ năm 2018, chung
sống hạnh phúc đến năm 2020 mới đăng ký kết hôn, nguyên nhân là vợ chồng bất
đồng quan điểm không có tiếng nói chung nên xảy ra mâu thuẫn gia đình, một phần
cũng do kinh doanh làm ăn không thuận lợi nên dẫn đến nợ nần, từ đó vợ chồng xảy
ra mâu thuẫn, 02 mẹ con về bên ngoại ở và anh H làm ở Quảng Nam, sau đó chuyển
đến thành phố Đà Lạt làm ăn. Sau khi thông báo phiên họp và hòa giải thì chị P cũng
có gọi điện thoại cho anh H thông báo để về giải quyết việc ly hôn nhưng anh H nói
không về được, muốn giải quyết ly hôn thì chị tự giải quyết. Chị P vẫn giữ nguyên
quan điểm là xin được ly hôn với anh Lê Đình H vì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn gia
đình, vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay nên
không có khả năng đoàn tụ. Về con chung: chị P vẫn giữ quan điểm có nguyện vọng
muốn được trực tiếp nuôi dưỡng con chung vì từ lúc không còn chung sống với nhau
4
đến nay chị là người trực tiếp nuôi con chung. Không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng
để nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, bị đơn anh Lê Đình H vắng mặt lần thứ hai không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Bông trình bày quan điểm đối
với việc giải quyết vụ án như sau:
Về tố tụng: Quá trình thu thập chứng cứ của vụ án từ khi thụ lý cho đến khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán đã giải quyết đúng trình tự, thủ tục của
Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và đương sự đã chấp hành tốt
các quy định của pháp luật về phiên toà sơ thẩm. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp
lệ, các thủ tục tố tụng đã niêm yết đầy đủ, tại phiên tòa hôm nay đã được mở lần thứ
hai nên việc HĐXX vẫn tiến hành xét xử là bảo đảm đúng thủ tục theo quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện, cung cấp đủ tài liệu, chứng
cứ chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bị đơn không hợp tác, cố
tình vắng mặt.
Qua chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do đương sự cung cấp và tòa án thu thập
được công khai tại phiên tòa, qua kết quả tranh luận tại phiên tòa thì có đủ cơ sở xác
định mâu thuẫn gia đình của chị P và anh H đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung
không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, không còn chung sống với
nhau từ lâu. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn có căn cứ, đề nghị
Hội đồng xét xử xem xét. Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn
nhân gia đình; Điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326 ngày
30/12/2016 của UBTVQH. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Lê
Thị P được ly hôn với anh Lê Đình H. Về con chung: giao cháu Lê Đình Anh Q cho
chị Lê Thị P trực tiếp nuôi dưỡng. Các vấn đề khác đương sự không yêu cầu nên
không đặt ra để giải quyết.
Về án phí: Chị Lê Thị P phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo
quy định.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày và xác
nhận của đương sự trước phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa
và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX xét thấy:
[1] Về thẩm quyền: Vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” giữa chị Lê Thị P
với anh Lê Đình H, do bị đơn có nơi cư trú tại huyện Krông Bông nên thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông theo quy định tại khoản 1
Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự,
do đó Tòa án nhân dân huyện Krông Bông thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền.
Tại phiên tòa hôm nay, anh Lê Đình H vắng mặt lần thứ hai, quyết định hoãn
phiên tòa đã được tống đạt, tòa án vẫn tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt anh Lê
Đình H là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị P và anh Lê Đình H chung sống với nhau từ
năm 2018, đến năm 2020 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa P theo
giấy chứng nhận kết hôn số 09, ngày 30/01/2020. Quá trình chung sống hạnh phúc
được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là vợ chồng kinh doanh điện
lạnh nhưng thua lỗ nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn gia đình. Sau đó chị P đưa con về
bên ngoại ở xã Hòa P, huyện Krông B từ tháng 9 năm 2021 đến nay, anh H tiếp tục ở
lại tỉnh Quảng Nam một thời gian sau đó chuyển đến thành phố Đà Lạt sinh sống đến
nay, từ khi chị P về bên ngoại sinh sống anh H cũng có về thăm mẹ con được mấy
lần, từ đầu năm 2022 đến nay anh H cũng có đến thăm con được một số lần nhưng
hầu như không quan tâm gì đến vợ con, chị P muốn anh H cùng về chung sống ở Hòa
P để cùng nhau làm ăn nuôi con nhưng anh H không đồng ý. Vợ chồng đã chính thức
không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay. Chị P xác định vợ chồng
không còn tình cảm với nhau nữa vì không còn chung sống với nhau đã lâu, cuộc sống
chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án
nhân dân huyện Krông Bông giải quyết cho chị P được ly hôn với anh Lê Đình H. Tại
bản tự khai anh H cũng cho rằng do làm ăn kinh doanh không được thuận lợi nên dẫn
đến nợ nần, gặp khó khăn về kinh tế nên cho chị P và con về bên ngoại ở xã Hòa P
sinh sống, còn anh vẫn ở lại tỉnh Quảng Nam làm việc, do công việc không được
thuận lợi nên chuyển về Đà Lạt làm, sau đó anh H cũng về bên ngoại thăm vợ con
nhưng không đều vì bận nhiều công việc, trong thời gian khoảng 20 ngày trước khi
chị P làm đơn xin ly hôn thì vợ chồng có xảy ra cãi nhau. Nay chị P yêu cầu Tòa án
giải quyết ly hôn, anh H không đồng ý ly hôn, yêu cầu ly thân một năm để hai vợ
chồng suy nghĩ rồi ngồi lại nói chuyện xem có chung sống được với nhau nữa hay

6
không, để giải quyết việc hai bên nội ngoại. Anh H không hợp tác nên không tiến
hành hòa giải được.
Thông qua văn phòng Thừa phát lại, Tòa án đã gửi Thông báo về phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Biên bản về kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho người thân của anh H là ông Lê
Đình D và bà Nguyễn Thị H (bố, mẹ), Lê Việt H và Lê Đình U (em trai). Bà H mẹ
anh H đã thừa nhận có thông báo toàn bộ nội dung các văn bản của Tòa án cho anh
H nhưng anh H nói là để chị P tự giải quyết ly hôn, anh không về được. Tuy nhiên,
anh Lê Đình H đều vắng mặt không có lý do. Tòa án đã trực tiếp liên lạc qua điện
thoại theo số điện thoại chị P cung cấp, trao đổi qua điện thoại và mạng xã hội Zalo,
tòa án đã thông báo cho anh Hải đến Tòa án để tham gia phiên họp và hòa giải, anh
H nói rằng có về Tòa án để giải làm việc thì anh cũng không đạt được nguyện vọng
của mình nên không về, tòa án muốn làm gì thì làm. Anh Lê Đình H đã đến Tòa án
để làm việc, đã được nhận Thông báo về việc thụ lý vụ án, đã viết bản tự khai, sau
đó Tòa án tiếp tục gửi các văn bản tố tụng cho người thân của anh H, đồng thời tòa
án cũng đã thông báo bằng điện thoại và mạng xã hội Zalo nhưng anh H không chấp
hành, anh H đã biết rất rõ việc chị P đang yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn với
anh nhưng đều vắng mặt không có lý do, cố tình trốn tránh không hợp tác làm việc,
anh H tự từ bỏ quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Qua lời trình bày của đương sự và biên bản xác minh, HĐXX xét thấy giữa chị
P và anh H thực tế có xảy ra mâu thuẫn gia đình, nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát
từ bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, làm ăn kinh doanh
bị thua lỗ nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Chị P khai vợ chồng đã còn chung
sống với nhau từ đầu năm 2022 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc
nhau, nay chị P yêu cầu giải quyết ly hôn. Căn cứ vào chứng cứ nêu trên để khẳng
định mâu thuẫn gia đình giữa chị P và anh H đã đến mức trầm trọng, vợ chồng đã
không còn chung sống với nhau từ lâu, không còn có sự thương yêu, quan tâm chăm
sóc lẫn nhau, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được
và không còn khả năng đoàn tụ. Do đó, yêu cầu khởi kiện của chị P cần được HĐXX
chấp nhận, cho chị Lê Thị P được ly hôn với anh Lê Đình H là phù hợp theo quy định
tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Chị Lê Thị P và anh Lê Đình H có một người con chung, cháu
tên Lê Đình Anh Q, sinh ngày 10/8/2020.
Chị Lê Thị P có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Tại
7
phiên tòa chị P cũng giữ nguyên ý kiến. Xét nguyện vọng của chị P là chính đáng, kể
từ khi vợ chồng không còn chung sống đến nay thì chị P là người trực tiếp nuôi dưỡng
con chung nên HĐXX cần chấp nhận giao con chung cho chị P trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về cấp dưỡng: Chị P chưa yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án
không đặt ra để giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị P không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra để
giải quyết.
3. Về án phí: Chị Lê Thị P phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 48; Điều 144, Điều 147; Điều 220; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228;
Điều 241; 266; 267; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị P đối với
bị đơn anh Lê Đình H về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị P được ly hôn với anh Lê Đình H. Giấy
chứng nhận kết hôn số 09, ngày 30/01/2020 do Ủy ban nhân dân xã Hòa P, huyện
Krông B, tỉnh Đắk Lắk cấp cho chị Lê Thị P và anh Lê Đình H hết hiệu lực kể từ ngày
bản án này có hiệu lực pháp luật.
[2] Về con chung: Giao con chung Lê Đình Anh Q, sinh ngày 10/8/2020 cho chị
Lê Thị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Lê
Đình Anh Q đủ tròn 18 tuổi.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền
và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật như; có quyền thăm nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở thực hiện quyền
này.

8
Để đảm bảo quyền lợi chung của con chưa đủ tuổi thành niên, các bên có quyền
xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con do các bên tự thỏa
thuận. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật.
[3] Về án phí: Chị Lê Thị P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền
án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ mà chị
P đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0007150 ngày 22/7/2024 tại Chi cục thi hành
án dân sự huyện Krông Bông. Chị P đã nộp đủ.
[4] Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản
án trong hạn là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị đơn vắng mặt tại
phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND H. Krông Bông;
- Các đương sự;
- Chi cục THADS;
- UBND xã Hòa P;
- Lưu HS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Chu Văn Hồi
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 08/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm