Bản án số 01/2024/HNGĐ-ST ngày 19/12/2024 của TAND huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 01/2024/HNGĐ-ST ngày 19/12/2024 của TAND huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Đạ Tẻh (TAND tỉnh Lâm Đồng) |
Số hiệu: | 01/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/12/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị Phạm Thị Thanh Tâm ly hôn với anh Nguyễn Thế Anh |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN Đ
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 01/2024/HNGĐ-ST
Ngày:
19/12/2024
V/v: “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con.”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
I
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Diễm
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Trịnh Thị Thủy – Ông Vũ Thanh Hương.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Trung – Thư ký Tòa án nhân
dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ tham gia phiên tòa: Bà
Phan Thị Huề – Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 12 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh
Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 126/2023/TLST- HNGĐ
ngày 02 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 5
năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2024/QĐST – HNGĐ ngày
29/5/2024; Quyết định ngừng phiên tòa số 02/2024/QĐST – HNGĐ ngày
26/6/2024, Quyết định số: 01/2024/QĐST – HNGĐ ngày 25/7/2024, Thông báo
mở lại phiên tòa sơ thẩm số 01/TB-TA ngày 01/11/2024; Quyết định số
23/2024/QĐST – HNGĐ ngày 29/11/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thanh T, sinh năm: 1987.
Trú tại: Thôn Bình Hòa, xã Đạ Pal, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. “Có mặt”
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
1/ Bà Mơ Thiên – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý
nhà nước tỉnh Lâm Đồng. “Có đơn xin vắng mặt”.
2/ Ông Nguyễn Thành Thi – Luật sư thuộc đoàn luật sư tỉnh Bình Phước.
Địa chỉ: Số 190, quốc lộ 14, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng, tỉnh
Bình Phước. “Có mặt”.
Đại diện hợp pháp: Bà Phan Thị Viên (mẹ ruột chị Tâm)
Địa chỉ: Thôn Bình Hòa, xã Đạ Pal, huyện Đạ Huoai (huyện Đạ Tẻh cũ),
tỉnh Lâm Đồng. “có mặt”
- Bị đơn: Anh Nguyễn Thế A, sinh năm 1992.
2
Trú tại: Thôn 4, xã Đạ Kho, huyện Đ (huyện Đạ Tẻh cũ), tỉnh Lâm
Đồng“Có mặt”.
Đại diện hợp pháp: Bà Trần Thị Lan, sinh năm 1969.
Địa chỉ: Thôn 4, xã Đạ Kho, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Trong đơn khởi kiện ghi ngày 12 tháng 10 năm 2024 và các tài liệu
có trong hồ sơ vụ án, tại phiên tòa nguyên đơn chị Phạm Thị Thanh T trình
bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Thanh T và anh Nguyễn Thế A kết
hôn với nhau từ năm 2021 trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban
nhân dân xã Đạ Kho, huyện Đ (huyện Đạ Tẻh cũ), tỉnh Lâm Đồng. Sau khi kết
hôn, vợ chồng anh chị về chung sống tại nhà bố mẹ chồng thuộc thôn 4, xã Đạ
Kho, huyện Đ (huyện Đạ Tẻh cũ) sau đó phát sinh mâu thuẫn nên đến tháng 10
năm 2023 chị Tâm về nhà mẹ đẻ tại xã Đạ Pal, huyện Đ sinh sống. Đến nay, chị
T nhận thấy không còn tình cảm với anh Thế A nữa nên yêu cầu Tòa án giải
quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Thế A.
- Về con chung: Trong quá trình chung sống chị Phạm Thị Thanh T và anh
Nguyễn Thế A có với nhau 01 người con chung là cháu Nguyễn Gia Bảo, sinh
ngày 23/04/2022, khi ly hôn chị T yêu cầu được nuôi cháu Bảo và yêu cầu anh
Thế A cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng.
- Về tài sản chung: Chị T và anh Thế A không có tài sản chung nên không
yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Vợ chồng không nợ ai.
Ngoài ra, chị Phạm Thị Thanh T không trình bày hay yêu cầu gì khác.
2. Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Thế A
trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thế A xác nhận anh chị kết hôn với
nhau vào năm 2021, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đạ Kho, huyện Đạ
Tẻh, tỉnh Lâm Đồng là có thật. Sau khi kết hôn vợ chồng sống anh chị không
phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp gì, tuy nhiên đến tháng 10 năm 2023 chị Tâm
bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại xã Đạ Pal, huyện Đạ Tẻh sinh sống. Do đó, nay chị Tâm
khởi kiện yêu cầu ly hôn thì anh Thế Anh không đồng ý ly hôn vì vẫn còn
thương chị Tâm.
- Về con chung: Trong quá trình chung sống anh Thế A xác nhận vợ chồng
anh chị có với nhau 01 người con chung là cháu Nguyễn Gia Bảo, sinh ngày
23/04/2022, nếu phải ly hôn anh Thế A yêu cầu được nuôi cháu Bảo và không
yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Vì từ khi vợ chồng anh chị ly thân thì cháu
3
Nguyễn Gia Bảo vẫn sinh sống cùng với anh Thế A và được ông bà nội ở chung
nhà chăm sóc, tạo điều kiện cho cháu đi học đầy đủ.
- Về tài sản chung: Anh Thế A xác nhận vợ chồng không có tài sản chung
nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Vợ chồng không nợ ai.
Ngoài ra, anh Nguyễn Thế A không trình bày hay yêu cầu gì khác.
*Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ có ý kiến như
sau:
- Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi
thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư
ký, Hội đồng xét xử đã tuân theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, thụ lý
vụ án theo đúng thẩm quyền, thu thập chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử
và mở phiên toà, quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật tố
tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng quy định tại các Điều 70,
71 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án:
+Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Phạm
Thị Thanh T được ly hôn với anh Nguyễn Thế A.
+ Về con chung: Đề nghị xử giao con chung là cháu Nguyễn Gia Bảo, sinh
ngày 23/04/2022 cho anh Nguyễn Thế A trực tiếp nuôi con, chị Tâm không phải
cấp dưỡng nuôi con.
+ Về án phí: Buộc chị Phạm Thị Thanh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm
theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát không có kiến nghị gì đối với việc thụ lý,
giải quyết vụ án.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa của các đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và trợ giúp pháp lý của
nguyên đơn vắng mặt đã có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của
nguyên đơn, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Nguyên đơn chị Phạm Thị Thanh T khởi kiện yêu cầu ly hôn và nuôi con
đối với bị đơn anh Nguyễn Thế Anh có nơi cư trú tại: Thôn 4, xã Đạ Kho, huyện
Đ (huyện Đạ Tẻh cũ), tỉnh Lâm Đồng. Vì vậy, xác định tranh chấp giữa các
đương sự trong vụ án là “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con”, thuộc thẩm quyền
4
giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ (huyện Đạ Tẻh cũ) theo quy định tại
khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015.
1.2 Về thủ tục tố tụng: Qúa trình tố tụng và tại phiên tòa bà Phan Thị Viên
là mẹ ruột chị Phạm Thị Thanh T và bà Trần Thị Lan là mẹ ruột anh Nguyễn
Thế A có đơn đề nghị tham gia là người đại diện cho chị Tâm và anh Thế A tại
phiên tòa để trình bày phụ giúp hai con của mình nhưng không làm ảnh hưởng
đến sự quyết định của chị Tâm và anh Thế A. Đồng thời, chị Phạm Thị Thanh T
có đề nghị trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy,
Hội đồng xét xử nhận thấy cần bổ sung tư cách tố tụng đối với người đại diện
hợp pháp và trợ giúp pháp lý cho chị Phạm Thị Thanh T là phù hợp đảm bảo
quyền lợi của các đương sự theo quy định pháp luật.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Thị Thanh T về ly
hôn và nuôi con, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.1] Đối với yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị Thanh T:
Chị Phạm Thị Thanh T và anh Nguyễn Thế A kết hôn hoàn toàn tự nguyện
có đăng ký kết hôn vào năm 2021 tại Uỷ ban nhân dân xã Đạ Kho, huyện Đ
(huyện Đạ Tẻh cũ), tỉnh Lâm Đồng, vì vậy quan hệ hôn nhân được xác lập giữa
chị Tâm và anh Thế A là hôn nhân hợp pháp.
Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ là biên bản xác minh ngày
26/4/2024 của Tòa án về tình trạng hôn nhân giữa anh chị tại địa phương thấy
rằng: Chị Phạm Thị Thanh T và anh Nguyễn Thế A chung sống với nhau không
mâu thuẫn gì, nhưng đến tháng 10 năm 2023, chị Tâm không chung sống với
anh Thế Anh nữa mà về nhà mẹ đẻ tại thôn Đạ Pal, huyện Đ (huyện Đạ Tẻh cũ),
tỉnh Lâm Đồng sinh sống cho đến nay. Đồng thời, chị T đã chuyển hộ khẩu về
nhà bố mẹ đẻ sinh sống và nhập khẩu. Nay chị T yêu cầu ly hôn, anh Nguyễn
Thế A không đồng ý ly hôn và không ý kiến gì khác. Tuy vậy, Hội đồng xét xử
nhận thấy tình cảm giữa vợ chồng anh chị là trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống hôn nhân anh chị
không mang lại kết quả tốt đẹp cũng như mục đích mà hôn nhân hướng đến. Bản
thân anh Nguyễn Thế A vẫn chưa có biện pháp khắc phục để níu kéo hạnh phúc
gia đình, bên cạnh đó chị T kiên quyết ly hôn với anh Thế A. Vì vậy, căn cứ
Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình thì Hội Đồng xét xử xét thấy cần chấp
nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị Thanh T với anh Nguyễn Thế A là có cơ
sở pháp luật và phù hợp với thực tế.
[2] Đối với yêu cầu được nuôi con của chị Phạm Thị Thanh T:
Căn cứ đơn khởi kiện của chị T và tài liệu, chứng cứ kèm theo thể hiện
trong quá trình chung sống giữa chị T, anh Thế A có 01 con chung là cháu
Nguyễn Gia B, sinh ngày 23/4/2022, từ khi cháu Bảo khoảng hơn 12 tháng thì
chị T đã ly thân với anh Thế A về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, còn cháu Gia Bảo do
5
anh Thế A được ông bà nội phụ giúp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục từ đó cho
đến nay. Qúa trình tố tụng và tại phiên tòa anh chị cùng đề nghị được nuôi con
chung, chị T yêu cầu anh Thế A cấp dưỡng tiền nuôi con 2.000.000 đồng/tháng,
anh Thế A không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.
Hội đồng xét xử nhận thấy, mặt dù cháu Gia Bảo còn nhỏ dưới 36 tháng
tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
“Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người
mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con….”. Tuy nhiên, căn cứ khoản 1 Điều 6 Nghị quyết 01/2024/NQ – HĐTP
ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia
đình và theo lẽ thường tình luôn ưu tiên đối với trẻ em nhằm góp phần đảm bảo
sự ổn định và phát triển mọi mặt của con chung. Do vậy khi Hội đồng xét xử
phân tích đánh giá về việc giao con chung cho người trực tiếp nuôi dưỡng phải
trên cơ sở đảm bảo sự phát triển bình thường của con, hạn chế sự xáo trộn môi
trường sống, giáo dục của con nhằm đảm bảo sự ổn định của con. Bởi lẽ, trong
thời gian vợ chồng ly thân (hơn 12 tháng) cháu Gia Bảo vẫn sinh sống cùng với
anh Thế A và được ông bà nội hỗ trợ chăm sóc, giáo dục tận tình, chu đáo đảm
bảo phát triển thể chất cũng như tinh thần bình thường. Từ những phân tích trên
nên Hội đồng xét xử xét cần giao con cho anh Nguyễn Thế A trực tiếp nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục là hợp tình và hợp lý. Bên cạnh đó, Hội đồng xét xử
nhận thấy theo biên bản xác minh tại trạm xá xã Đạ Pal, huyện Đ xác nhận việc
nghe nói của chị T có khó khăn do chị bị khuyết tật nghe nói bẩm sinh cần sự hỗ
trợ của gia đình. Do vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy nếu giao con cho chị T nuôi
dưỡng sẽ ảnh hưởng đến những khó khăn nhất định bao gồm cả khả năng bảo vệ
con khỏi bị xâm hại, bóc lột vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu
trực tiếp nuôi con của chị T là hoàn toàn có cơ sở.
Mặc khác do anh Nguyễn Thế A không yêu cầu chị Phạm Thị Thanh T cấp
dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[3] Đối với tài sản chung, nợ chung:
Vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung và không
yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết là phù
hợp.
[4] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát:
Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận một phần yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị Thanh T. Đối với yêu cầu nuôi
con của chị T đề nghị không chấp nhận mà cần giao con chung là cháu Nguyễn
Gia Bảo, sinh ngày 23/4/2022 cho anh Nguyễn Thế A nuôi dưỡng là có cơ sở và
phù hợp với nhận định của của Hội đồng xét xử.
[5] Về án phí:
6
Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 5, khoản 6
Điều 27 của Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí tòa án số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành
kèm theo Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Chị Phạm Thị Thanh T khởi kiện ly hôn nên phải nộp 300.000đ (Ba trăm
ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 84 của Luật hôn nhân và gia
đình;
Căn cứ khoản 1 Điều 6 của Nghị quyết số 01/2024/NQ – HĐTP ngày
16/5/2024 của 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về
hôn nhân và gia đình;
Căn cứ khoản 5, khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án số
326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội và
Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Phạm Thị
Thanh T.
Chị Phạm Thị Thanh T được ly hôn với anh Nguyễn Thế A.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Gia Bảo, sinh ngày 23/04/2022 cho
anh Nguyễn Thế A trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành
(đủ 18 tuổi). Chị Phạm Thị Thanh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền
thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo
quy định Luật hôn nhân và gia đình.
3. Về án phí: Chị Phạm Thị Thanh T phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn
đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật nhưng được trừ
vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm
ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007804 ngày
02 tháng 11 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ (huyện Đạ Tẻh
7
cũ), tỉnh Lâm Đồng. Xác nhận chị T đã nộp đủ tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ
thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử
theo thủ tục phúc thẩm.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- TAND, VKSND tỉnh Lâm đồng;
- VKSND huyện Đ;
- THADS huyện Đ;
- UBND xã Đạ Kho;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký tên và đóng dấu)
Nguyễn Thị Mỹ Diễm
8
Tải về
Bản án số 01/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 01/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm