Bản án số 91/2023/HS-PT ngày 21-08-2023 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 91/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 91/2023/HS-PT ngày 21-08-2023 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 175.Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Ngãi
Số hiệu: 91/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Nguyễn Minh Th phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH QUẢNG NGÃI

--------------

Bản án số: 91/2023/HS-PT

Ngày: 21-8-2023

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

--------------------

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 91/2023/HS-PT NGÀY 21/08/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 107/2023/TLPT-HS ngày 28 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Minh Th do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2023/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh Th, sinh ngày 24 tháng 6 năm 1996 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn PH, xã BT, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn T và bà Huỳnh Thị Thanh H; vợ: Nguyễn Thị Kim Q; con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 29/7/2016 bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 03 năm 03 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Ngày 12/02/2018 chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh Th và Nguyễn Thanh C là bạn bè, quen biết nhau. Sáng ngày 14/8/2022, C và Th cùng nhau xây mộ cho gia đình C tại nghĩa địa xã BĐ, huyện B. Đến khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày, sau khi xây mộ xong, C sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 76C1 – 393.xx của C chở Th về nhà của Th tại thôn Phước Hoà, xã BT, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Tại đây, bạn bè của Th gọi điện thoại rủ Th đến quán Karaoke NT tại thôn Đông Lỗ, xã Bình Thuận, huyện B để hát karaoke. Do C không hợp với nhóm bạn này nên Th không rủ C đi cùng mà chỉ hỏi mượn xe mô tô của C để đi công việc thì C đồng ý. Sau khi mượn xe mô tô, Th điều khiển xe đến quán Karaoke NT chơi cùng bạn bè, quá trình hát karaoke có một số bạn của Th bỏ về trước, trong khi Th chỉ mang theo ít tiền, nên Th nghĩ sẽ không đủ tiền trả, lúc này Th nảy sinh ý định lấy xe mô tô 76C1 – 393.xx của C để cầm cố cho quán. Khi Hồ Anh L, nhân viên của quán tính tiền hát karaoke là 10.000.000 đồng, Th đưa căn cước công dân của Th cho L và đề nghị L cho Th cầm cố xe mô tô 76C1 – 393.xx, để cấn trừ chi phí cho quán Karaoke NT, thì L đồng ý cầm xe mô tô 76C1 – 393.xx với số tiền 10.000.000 đồng bằng với chi phí hát karaoke. Khi L hỏi giấy tờ xe thì Th nói giấy tờ xe người thân giữ, hẹn hôm sau sẽ mang tiền đến chuộc lại xe và căn cước công dân. Khoảng 04 ngày sau khi cầm cố xe, L có tìm gặp Th yêu cầu Th đến trả tiền karaoke và lấy xe về nhưng Th không chịu đến trả tiền để chuộc lại xe, vì Th không có tiền và nghĩ C là bạn quen thân sẽ không báo công an.

Nguyễn Thanh C sau khi cho Th mượn xe mô tô 76C1 – 393.xx nhưng không thấy Th mang xe về trả, nên nhiều lần yêu cầu Th trả xe nhưng Th tránh né không chịu đến quán Karaoke NT chuộc lại xe trả cho C và C gọi thì Th không chịu nghe điện thoại nên ngày 19/8/2022, C gửi đơn tố giác đến Công an. Qua trình điều tra, Công an đã thu hồi được xe mô tô mang biển số 76C1 - 393.xx trả lại cho C.

Ngày 28/9/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exicter, biển kiểm soát 76C1-393.xx trị giá 20.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2023/HS-ST ngày 25/5/2023, Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh Th phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Th 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 07/6/2023, bị cáo Nguyễn Minh Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Minh Th về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và xử phạt bị cáo 15 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm cung cấp tình tiết mới, có ông ngoại là liệt sĩ. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, ngày 29/7/2016 bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 03 năm 03 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, nhưng không biết lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Nên mức án Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là phù hợp, không nặng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 56/2023/HS- ST ngày 25/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi của bị cáo Nguyễn Minh Th: Khoảng 17 giờ ngày 14/8/2022 sau khi mượn xe mô tô biển kiểm soát 76C1 – 393.xx của anh Nguyễn Thanh C để đi hát karaoke cùng với bạn. Đến khi thanh toán tiền, bị cáo không có tiền nên đã cầm cố xe mô tô trên cho quán với số tiền 10.000.000 đồng để cấn trừ tiền hát karaoke. Sau đó, vì không có tiền chuộc lại xe mô tô nên bị cáo trốn tránh và không trả lại xe cho anh Nguyễn Thanh C. Giá trị xe mô tô bị cáo chiếm đoạt là 20.000.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Minh Th về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo: Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đang nuôi con nhỏ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đầy đủ cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo cung cấp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, có ông ngoại Huỳnh Rừng là Liệt sĩ. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Bị cáo Nguyễn Minh Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh Th. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 56/2023/HS-ST ngày 25/5/2023 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.

- Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh Th 01 (Một) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhn:

- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;

- Sở Tư pháp tnh Quảng Ngãi;

- VKSND huyện B;

- TAND huyện B;

- Công an huyện B;

- Chi cục THADS huyện B;

- Bị cáo;

- Lưu hồ sơ.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

 

 

(Đã ký và đóng du)

 

 

 

Lương Văn Hùng

 

Tải về
91-2023-HS-PT-QUANG NGAI 91-2023-HS-PT-QUANG NGAI

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

91-2023-HS-PT-QUANG NGAI 91-2023-HS-PT-QUANG NGAI

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất