Bản án số 414/2023/HS-ST ngày 21/08/2023 của TAND TP. Biên Hòa (TAND tỉnh Đồng Nai) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 414/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 414/2023/HS-ST ngày 21/08/2023 của TAND TP. Biên Hòa (TAND tỉnh Đồng Nai) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 175.Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Biên Hòa (TAND tỉnh Đồng Nai)
Số hiệu: 414/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/08/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Tạ Anh T phạm tội lạm dụn g tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA
TỈNH ĐỒNG NAI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 414/2023/HS-ST
Ngày: 21-8-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Thế Mạnh.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Trần Văn Chánh Cán bộ hưu trí.
Thiều Thị Phi Loan Cán bộ hưu trí.
- Thư phiên tòa: Nguyễn ThTuyết Nhung Thư Tòa án nhân dân
thành phố Biên Hòa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa tham gia phiên tòa: Ông
Duy Bình - Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 404/2023/TLST-HS
ngày 17 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 421/2023/QĐXXST-
HS ngày 02 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:
Tạ Anh T (tên gọi khác: Không), sinh năm 1999 tại B P; giới tính: Nam; nơi
đăng thường trú: ...., khu phố N T, phường B T, TP. D A, tỉnh B D; nơi trú hiện
nay: ..., khu phố 1, phường A B, TP. B H, tỉnh Đ N; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ
học vấn: 04/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Tạ Đình
Ch, sinh năm 1955 (đã mất) và bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1966; gia đình có 04 chị
em (bị cáo là con út) và chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giam tngày 20/6/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm
giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa. (có mặt)
- Bị hại: Bà Nguyễn Vũ Hoàng Y, sinh năm 1981.
Địa chỉ: ..., khu phố 4, phường Q T, thành phố B H, tỉnh Đ N. (vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thị D, sinh năm 1947. (vắng mặt)
2
2. Bà Trần Thị Ngọc Th, sinh năm 1978. (vắng mặt)
3. Bà Trần Thị Út H, sinh năm 1982. (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: ..., khu phố 4, phường Q T, thành phố B H, tỉnh Đ N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Chị Trần Thị Út H (sinh năm 1982) chị Nguyễn Hoàng Y (sinh năm
1981), cùng ngụ tại số ..., khu phố 4, phường Q T, thành phố B H, tỉnh Đ N, mối
quan hệ bạn với nhau. Vào ngày 15 tháng 3 năm 2019, khi chị H chị Y đang
nhà tại địa chỉ nêu trên thì Tạ Anh T (em họ của chị Y) đến chơi ăn nhậu ng
nhau. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, T nói đi về nhưng T không xe nên chị Y mượn
chiếc xe môtô hiệu Airbalade màu đỏ-đen-trắng biển số 60B4-222.12 của chị H để chở
T về thì được chị H đồng ý. Sau đó, chị Y điều khiển chiếc xe trên chT về nhà trọ của
người tên Thùy (không nhân thân, do Tuấn mới quen) tại khu vực khách sạn Hoàng
Vân thuộc phường Long Bình Tân, TP. Biên Hòa rồi lại chơi được khoảng 01 tiếng
thì T hỏi mượn chị Y chiếc xe trên để chở Thùy đi chơi được chị Y đồng ý. Sau khi
mượn được xe, T chở Thùy đi chơi game bắn hết tiền nên T nảy sinh ý định chiếm
đoạt chiếc xe trên. Thực hiện ý định trên, T chở theo Thùy mang chiếc xe trên đi cầm đồ
cho người phụ nữ (không nhân thân) tại khu vực ngã Vũng Tàu được số tiền
11.000.000 đồng (Mười một triệu đồng) rồi s dụng để chơi game bắn hết. Đến
khoảng 01 giờ ngày 16 tháng 3 năm 2019, T quay về phòng trọ, lúc này chị Y hỏi thì T
nói cho chị Y biết sự việc T đã cầm xe nêu trên. Sau đó, T bỏ đi khỏi địa phương nên
ngày 02 tháng 4 năm 2019, chị H đã làm đơn tố cáo T đến Công an phường Quyết
Thắng, lập hồ chuyển quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa khởi
tố, điều tra xử lý.
Vật chứng của vụ án: 01 chiếc xe môtô hiệu Airbalade màu đỏ-đen-trắng biển số
60B4-222.12 bị chiếm đoạt, xe do chị Trần Thị Ngọc Th (sinh năm 1978, ngụ tại số
..., khu phố 4, phường Q Th, thành phố B H, tỉnh Đ N) đứng tên đăng chủ sở hữu,
giao cho Phan Thị D (sinh năm 1947, cùng ngụ tại địa chỉ trên) mẹ của chị Th sử
dụng chung trong gia đình. Ngày 15 tháng 3 năm 2019, chị H (là con của D) đã cho
chị Y mượn chiếc xe trên và bị T chiếm đoạt nêu trên. Sau khi chiếm đoạt xe, T đã cầm
cho đối tượng (không rõ nhân thân, lai lịch) nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.
* Tại bản Kết luận định giá tài sn s 175/TCKH-HĐĐG ngày 20 tháng 5 năm
2019 ca Hội đồng định gtài sn trong t tng hình s thành ph Biên Hòa kết lun:
3
01 chiếc xe môtô hiệu Airbalade màu đỏ-đen-trắng biển số 60B4-222.12, trị giá
32.072.000 đồng (Ba mươi hai triệu, không trăm bảy mươi hai nghìn đồng)”.
* Về trách nhiệm dân sự:
- Bị hại chị Nguyễn Hoàng Y yêu cầu bị cáo T giải quyết bồi thường trực
tiếp với chị Trần Thị Út H theo yêu cầu. Ngày 22/6/2023, bà Nguyễn Thị Thu H (là mẹ
của bị cáo T) đã bồi thường số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) cho chị H
theo yêu cầu. Chị Y và chị H, không có yêu cầu gì thêm.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị D và chị Trần Thị Ngọc
Th, không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
Tại cáo trạng số 410/CT-VKSBH ngày 14 tháng 7 năm 2023, Viện Kiểm sát
nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Tạ Anh T, về tội “Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tham gia phiên tòa vẫn
giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt i
sảnđề nghị Hội đồng xét xử:
+ Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt Tạ Anh T mức án t16 (ời sáu) tháng đến 18
(mười tám) tháng nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách từ 32 (ba mươi
hai) tháng đến 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Đối với đối tượng tên Thùy (không rõ họ và địa chỉ) là người đi cùng bị cáo T để
cầm xe cùng với T sử dụng số tiền được tviệc cầm xe. Tuy nhiên, do chưa xác
minh làm việc được nên chưa đủ chứng cứ để kết luận hành vi liên quan. Đồng thời,
đối với đối tượng đã cầm chiếc xe trên chưa xác định làm việc được nên quan
Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh các trường hợp này để
làm rõ và xử lý sau.
+ Về trách nhiệm dân sự: Quá trình Điều tra đã giải quyết xong. Bị hại và người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường thêm. Do đó, không
đặt ra xem xét giải quyết.
+ Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố của
Viện kiểm sát không ý kiến bào chữa, tranh luận đối với lời luận tội của đại
diện Viện Kiểm sát.
4
Trong phần phát biểu lời nói sau cùng: Bị cáo đã nhận thức hành vi phạm tội của
mình là vi phạm pháp luật. Quá trình Điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo xin Hội đồng xét xxem xét cho bị cáo
được hưởng mức án nhẹ nhất đbcáo sớm được trở về tái hòa nhập với cộng đồng,
làm lại cuộc đời, khắc phục lỗi lầm của bản thân trở thành người có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Tn cơ sở nội dung vụ án,n c o các tài liệu trong hồ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên a, Hội đồng t xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của quan điều tra Công an thành phố
Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng vthẩm quyền, trình tự, thủ tục qui
định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa, bị cáo không có ý
kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[1.2] Bị hại những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập
hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, quá trình điều tra đã có đầy đủ lời khai
của những người này. Xét thấy, việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng
đến việc xét xử. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử vắng mặt bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Về hành vi thực hiện tội phạm và Điều luật truy tố:
[2.1] Tại phiên tòa bị cáo Tạ Anh T khai nhận: Vào ngày 15 tháng 3 năm 2019,
sau khi mượn được chiếc xe môtô hiệu Airbalade màu đ-đen-trắng biển số 60B4-
222.12 trị giá 32.072.000 đồng (do chị Trần Thị Ngọc Th, sinh năm 1978; ttại số ...,
khu phố 4, phường Q T, thành phố B H, tỉnh Đ N đứng tên đăng chủ sở hữu. Chị Th
giao cho Phan Thị D, sinh năm 1947 mẹ đẻ sử dụng chung trong gia đình. Ngày
15/3/2019 thì chị Trần Thị Út H con của D đã lấy cho chị Nguyễn Hoàng Y
mượn để chở T về phòng trọ tại khu vực khách sạn Hoàng Vân thuộc phường Long Bình
Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Do hết tiền tiêu xài nhân nên bcáo nảy
sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe môtô nói trên, mang đi cầm đồ cho người phụ n
(không nhân thân, lai lịch) tại khu vực ngã tư Vũng Tàu được số tiền 11.000.000
đồng (Mười một triệu đồng) rồi sử dụng để chơi game bắn cá hết.
5
[2.2] Xét thấy, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại,
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các tài liệu chứng cứ khác trong hồ vụ
án. Như vậy, đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Tạ Anh T đã đủ yếu tố cấu thành
tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân thành
phố Biên Hòa đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về nh chất, mức độ hành vi phạm tội và hình phạt áp dụng đối với bị cáo:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho hội, không những đã trực tiếp
xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ còn m
mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân.
vậy, cần phải mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi
phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo tác dụng răn đe, đấu tranh phòng
ngừa chung.
Tuy nhiên xét thấy: Bcáo không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi
phạm tội bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả; bcáo phạm tội lần đầu thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, truy tố tại phiên tòa bị cáo thái độ
khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo nhân thân
tốt (chưa tiền án, tiền sự), thuộc thành phần gia đình lao động, trình độ học vấn
thấp (lớp 4/12) nên nhận thức pháp luật còn hạn chế và được người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan chị Trần Thị Út H (đại diện chủ sở hữu chiếc xe bị chiếm đoạt) làm đơn
bãi nại giảm nhhình phạt. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng
một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại các điểm b, i, s khoản 1
và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xét bị cáo không tiết tăng nặng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình snêu trên. Trong vụ án này bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/6/2023 cho đến
nay. Do vậy, không cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi xã hội cho bị cáo được
hưởng án treo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi trú cũng
đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng
của pháp luật Nhà nước ta. Áp dụng khoản 4, Điều 328 Bộ luật ttụng hình sự. Trtự
do ngay tại phn a nếu bo không bị giam, givề một tội phạm khác.
Về hình phạt bổ sung: Theo qui định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình squi
định “Người phạm tội còn thể bị phạt tiền t 10.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm
đến 05 năm”. Do đó bị cáo thể bị áp dụng hình phạt bổ sung hình phạt tiền. Tuy
6
nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ lời khai của bo tại phiên tòa cho thấy bị cáo
không tài sản, không nghề nghiệp thu nhập n định. vậy, Hội đồng xét xử
quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình Điều tra đã giải quyết xong. Bị hại
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường thêm. Do đó,
Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[6] Về vấn đề khác:
Đối với đối tượng tên Thùy (không họ địa chỉ) người đi cùng bị cáo T
để cầm xe cùng với T sử dụng số tiền được từ việc cầm xe. Tuy nhiên, do chưa
xác minh làm việc được nên chưa đủ chứng cứ để kết luận hành vi liên quan. Đồng
thời, đối với đối tượng đã cầm chiếc xe trên chưa xác định làm việc được nên
quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh các trường hợp
này để làm rõ và xử lý sau là phù hợp.
[7] Về quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa:
Xét thấy phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tạ Anh T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản”.
2. Về hình phạt: Căn cứ điển a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2
Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về
án treo.
Xử phạt: Bcáo Tạ Anh T 16 (mười sáu) tháng nhưng cho hưởng án treo.
Thời gian thử thách 32 (ba mươi hai) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (21/8/2023).
Giao bị cáo Tạ Anh T cho Ủy ban nhân dân phường An Bình, thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi trú thì phải thực hiện theo quy định tại Điều
92 Luật Thi hành án hình sự 2019.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án thể quyết định
buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
7
Áp dụng khoản 4, Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trả t do ngay tại phiên tòa nếu bcáo kng bgiam, giữ về một tội phạm khác.
3. Về án phí hình sự thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Ngh quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 ca Ủy ban thường v Quc Hội quy đnh v mc thu, min, gim, np,
qun lý và s dng án phí, l phí Tòa án.
Buộc bị cáo Tạ Anh T phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày ktừ ngày tuyên án. Riêng
người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định
pháp luật./.
Nơi nhận:
- Tòa án tỉnh Đồng Nai (1);
- VKSND TP. Biên Hòa (2);
- Thi hành án (8);
- Công an TP. Biên Hòa (1);
- Bị cáo (1);
- Lưu VP-HS (4).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thế Mạnh
8
9
10
Tải về
Bản án 414/2023/HS-ST Đồng Nai Bản án 414/2023/HS-ST Đồng Nai

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 414/2023/HS-ST Đồng Nai Bản án 414/2023/HS-ST Đồng Nai

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất