Bản án số 156/2023/HS-PT ngày 12-09-2023 của TAND tỉnh Bình Định về về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 156/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 156/2023/HS-PT ngày 12-09-2023 của TAND tỉnh Bình Định về về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội danh: 175.Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Định
Số hiệu: 156/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/09/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Nguyễn Cao T phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH ĐỊNH
Bản án số: 156/2023/HS-PT
Ngày 12 - 9 - 2023
CỘNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Văn Thanh Gia
Các Thẩm phán: Ông Võ Công Phương
Ông Phan Minh Dũng
- Thư phiên tòa: Phan Thị Trang Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa:
Võ Thị Lệ Giang Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử
phúc thẩm công khai vụ án hình sthụ số: 133/2023/TLPT-HS ngày 01 tháng 8
năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Cao T do kháng cáo của bị cáo đối với Bản án
hình sự thẩm số: 20/2023/HS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2023 của Toà án nhân
dân huyn T, tỉnh Bình Định.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Cao T (tên gọi khác: Cu), sinh ngày 02/01/1991 tại huyn T, tỉnh
Bình Định; nơi trú: Khối 4, thị trấn P, huyn T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp:
Lái xe; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;
quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (chết) Trần Thị B, sinh năm:
1966; vợ: Nguyễn ThThanh T, sinh năm: 1993 (đã ly hôn); con: 01 con sinh
năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 26/12/2008, bị Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Định xphạt 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành
xong hình phạt ngày 13/5/2010; ngày 24/12/2012, bị Tòa án nhân dân huyn T xử
phạt 09 tháng nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian thử
thách 18 tháng, đã chấp hành xong hình phạt ngày 24/6/2014; ngày 24/6/2016, bị
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt 07 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản”, đã chấp hành xong hình phạt ngày 12/7/2016; ngày 28/8/2018, bị Công an
huyn T xphạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng v
hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý ngày 18/01/2019, bị Công an huyn T xử
phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi sử
2
dụng trái phép chất ma tuý. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi
cư trú và có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 20/10/2022, Nguyễn Cao T đến quán internet Trọng
Thuỷ khối 4, thị trấn P, huyn T thì gặp anh Trần Văn V. Do quan hệ quen
biết nên khi T hỏi mượn xe biển kiểm soát 77H1-513.XX của anh V đi dạo,
hứa hẹn một lúc sau quay lại trả xe thì anh V đồng ý. T điều khiển xe mô tô trên đi
dạo một mình thị trấn P được một lúc thì nảy sinh ý định cầm cố xe để lấy tiền tiêu
xài.
Khoảng 11 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô của anh V đến nhà Nguyễn
Lương H khu vực 2, phường H, thành phố Q nói dối xe của gia đình T, nhờ H
tìm người nhận cầm cố xe để vay 5.000.000 đồng H đồng ý giúp. H liên hệ với
chị Trần Thu Thanh N số 84 đường H, phường H, thành phố Q chN đồng ý
cho vay số tiền trên. T viết giấy mượn tiền với nội dung mượn số tiền 5.000.000
đồng và để lại xe mô tô biển kiểm soát 77H1-513.XX cho chị N làm tin. Sau đó, T
đưa giấy mượn tiền trên xe mô cho H điều khiển đến nhà chị N. Do nghĩ xe
này của T nên chị N không kiểm tra giấy tờ xe đưa cho H 4.000.000
đồng, giữ lại xe cùng với 1.000.000 đồng để sau này khi T trả tiền thì tính tiền lãi.
H về đưa lại tiền cho T. T lại nhà H chơi đến hôm sau thì thuê khách sạn
tiêu xài cá nhân hết 4.000.000 đồng và không có khả năng trả nợ cho chị N.
Đến 11 giờ cùng ngày, do không thấy T quay lại trả xe không thể liên lạc
được với T nên anh V đi bộ về nhà. Chiều cùng ngày, anh V đi tìm T nhưng không
thấy nên sáng hôm sau, anh V đến nhà gặp mẹ T là bà Trần Thị B hỏi tin tức của T
nhờ B liên lạc với T, yêu cầu trả lại xe nhưng B cũng không biết T hiện
tại đang đâu nên anh V đến quan Công an trình báo, tố cáo sự việc T chiếm
đoạt tài sản. Sau đó, bà B liên lạc được với T và báo cho T biết việc anh V đến nhà
đòi xe. sợ không đòi được xe, anh V sẽ báo Công an nên trưa ngày 21/10/2022,
T mượn điện thoại của một người đi đường gọi điện cho anh V nói dối rằng mình
đang đi công việc ở Gia Lai chưa thể về trả xe cho anh V được; anh V không đồng
ý yêu cầu T trả lại xe cho mình để sáng sớm hôm sau đi làm nhưng T không trả
xe và sau đó T không liên lạc với anh V lần nào nữa, anh V cũng không thể liên lạc
được với T.
Trưa ngày 21/10/2022, được sự đồng ý của T, H tiếp tục đến nhà chị N vay
1.000.000 đồng để tiêu xài nhân. Ngày 24/10/2022, sau khi tiêu i hết tiền, T
về nhà xin B số tiền 5.000.000 đồng để trtiền cho chị N lấy lại xe. Tuy
nhiên, do lúc này H chưa tiền trả cho T nên không dẫn T đến nchị N sau
đó T đã tiêu xài hết số tiền trên. Trưa ngày 25/10/2022, T tiếp tục vnhà xin tiền
B trả nợ. Do không tin tưởng T nữa nên B đã đưa tiền cho em trai T là anh
Nguyễn Cao T đi cùng T đến gặp H nhờ dẫn qua nhà chị N trả tiền. T trả cho chị N
3
6.000.000 đồng, còn 1.000.000 đồng trước đó chị N giữ lại để tính lãi thì T cho chị
N hai bên không tính lãi suất. Sau đó, T điều khiển xe mô biển kiểm soát
77H1-513.XX đem trả lại cho anh V.
Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 09/11/2022, Hội đồng định giá tài sản
trong tố tụng hình sự huyn T kết luận: Tại thời điểm bị chiếm đoạt, xe mô
Honda Airblade, màu sơn đen, biển kiểm soát 77H1-513.XX, giá trị 32.167.000
đồng.
Về trách nhiệm dân sự, anh V không yêu cầu xin giảm nhhình phạt cho
T.
Tại Bản án hình sự thẩm s20/2023/HS-ST ngày 31/5/2023, Toà án nhân
dân huyn T đã căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2
Điều 51 của Bluật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Cao T 15 tháng về tội
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định
về phần án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 14/6/2023, bị cáo Nguyễn Cao T kháng cáo xin giảm nhhình phạt
tại phiên toà, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo nói trên.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đề nghị Hội
đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng o của bị cáo Nguyễn Cao T, gi
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáotrong
hồ sơ vụ án và phù hợp với các chứng cứ khác nên có đủ cơ sở xác định:
Lợi dụng việc anh Trần Văn V tin tưởng, cho ợn xe mô tô biển kiểm soát
77H1-513.XX để đi công việc; trưa ngày 20/10/2022, trong khi đang sử dụng xe,
Nguyễn Cao T đã nảy sinh ý định mang xe trên đi cầm cố cho chị Trần Thu
Thanh N để vay 5.000.000 đồng tiêu xài cá nhân. Đến trưa ngày 21/10/2022, anh V
mới liên lạc được với T và yêu cầu trả xe nhưng T không thực hiện. Ngày
25/10/2022, T mang tiền đến trả cho chị N, lấy xe về và mang trả lại xe cho anh V.
Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 09/11/2022, Hội đồng định giá tài sản trong
tố tụng hình sự huyn T đã kết luận tại thời điểm bị chiếm đoạt, xe mô biển
kiểm soát 77H1-513.XX trị giá 32.167.000 đồng.
Do đó, Bản án hình sự thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 31/5/2023 của Toà
án nhân dân huyn T đã xét xử bị cáo Nguyễn Cao T vtội “Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản với tình tiết định khung Vay, mượn, thuê tài sản của người
khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng đã sử
dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không khả năng trả lại tài
sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự là phù hợp.
4
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bcáo Nguyễn Cao T, Hội
đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Hành vi của bcáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp của người khác,
gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự địa phương.
Bcáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bcáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải bị hại cũng đã yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt
đối với bị cáo quy định tại các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự. Ngoài ra, bị cáo nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định xét xử vtội “Trộm cắp tài sản” vào ngày 26/12/2008 tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” vào ngày 24/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyn T xét xử về tội “Trộm
cắp tài sản” vào ngày 24/12/2012, 02 lần bị Công an huyn T xử phạt vi phạm
hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý vào
ngày 28/8/2018 và ngày 18/01/2019.
Căn cứ tính chất, mức độ, hậu qu của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo,
Tòa án cấp thẩm đã xử phạt bị cáo 15 tháng phù hợp, đảm bảo tính răn đe
và ngăn ngừa tội phạm.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự nào khác.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Cao T và chấp nhận đề nghị
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý sử dụng án phí
lệ phí Tòa án thì bị cáo Nguyễn Cao T phải chịu 200.000 đồng.
[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng o,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ đim b khoản 1 Điều 175; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51
ca B luật Hình sự;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Cao T. Giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
5
2. Xử phạt bcáo Nguyễn Cao T 15 (mười lăm) tháng về tội “Lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt đi
thi hành án.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Cao T phải chịu 200.000
đồng (Hai trăm nghìn đồng).
4. Các quyết định khác của bản án hình sự thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Vụ GĐKT1.TANDTC;
- VKSND tỉnh Bình Định;
- TA, VKS, CQĐT Công an huyện T;
- Cơ quan THAHS Công an huyện T;
- Chi cục THADS huyện T;
- Sở Tư pháp tỉnh Bình Định;
- Cơ quan HSNV Công an tỉnh Bình Định;
- Bị cáo;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN T
Văn Thanh Gia
Tải về
156-2023-HS-PT-BINH-DINH 156-2023-HS-PT-BINH-DINH

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

156-2023-HS-PT-BINH-DINH 156-2023-HS-PT-BINH-DINH

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất