Bản án số 262/2023/HS-ST ngày 17-08-2023 của TAND TP. Vinh (TAND tỉnh Nghệ An) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
262_2023_HS-ST_TP VINH_ NGHE AN
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
262_2023_HS-ST_ TP VINH_NGHE AN
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 262/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 262/2023/HS-ST ngày 17-08-2023 của TAND TP. Vinh (TAND tỉnh Nghệ An) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản |
---|---|
Tội danh: | 175.Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Vinh (TAND tỉnh Nghệ An) |
Số hiệu: | 262/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/08/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Đặng Hoàng N phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH TỈNH NGHỆ AN ---------- Bản án số: 262/2023/HS-ST Ngày: 17/8/2023 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------
|
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 262/2023/HS-ST NGÀY 17/08/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 17/8/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 242/2023/HSST ngày 14/7/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 312 ngày 02/8/2023 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Đặng Hoàng N - Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 31 tháng 5 năm 2004 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký HKTT: Xóm Mẫu Đơn, xã H, thành phố Vinh, Nghệ An; Chổ ở hiện nay: Xóm Xuân Hùng, xã H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đặng Đình D – đã chết; Con bà: Hoàng Thị B – sinh năm 1971; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/5/2023 đến ngày 31/5/2023 được trả tự do, hiện áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm rời khỏi nơi cư trú; Có mặt tại phiên toà.
- Người bị hại: Anh Nguyễn Anh T – sinh năm 2004 – vắng mặt Địa chỉ: Xóm T, xã Trung Phúc Cường, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thị Thu T – sinh năm 1997 Địa chỉ: Khối 7, phường L, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An – có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đặng Hoàng N và anh Nguyễn Anh T (sinh ngày 12/01/2004, trú tại xóm T, xã Trung Phúc Cường, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) là bạn bè, cùng làm việc tại nhà hàng Minh Hồng ở số 9B, đường Mai Hắc Đế thuộc khối 5, phường Quán Bàu, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vào khoảng 21 giờ ngày 05/12/2022, sau khi làm việc, Nam gọi điện thoại cho anh Tuấn hỏi mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu xanh bạc, biển số 37M1 977.10 của anh Tuấn để đi công việc, anh Tuấn đồng ý. Anh Tuấn nói Nam đi đến khu vực ngã tư giao nhau giữa đường Ngư Hải và đường Quang Trung ở thành phố Vinh để lấy xe mô tô. Sau đó, Nam mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius, màu trắng, biển số 37B1 474.23 của anh Đậu Nhật Tân (sinh ngày 10/6/1991, trú tại xóm Đội Cung, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An) để đi gặp anh Tuấn. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Nam đi xe mô tô của anh Tân đến điểm hẹn gặp anh Tuấn thì thấy anh Tuấn đi cùng anh Vi Văn Tân (sinh ngày 20/6/1997, trú tại bản Quỳnh 2, xã Châu Bình, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An) và anh Nguyễn Văn Quang (sinh ngày 30/3/2007, là người cùng xóm với anh Tuấn). Tại đây, Nam mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu xanh bạc, biển số 37M1 977.10 của anh Tuấn để đi làm thêm và hẹn sáng ngày hôm sau sẽ trả, anh Tuấn đồng ý giao xe mô tô cho Nam. Nam nhờ anh Tuấn đi xe mô tô mượn của anh Tân về nhà hàng Minh Hồng trả lại cho anh Tân, còn Nam lấy xe của anh Tuấn đi. Sau khi đi làm thêm, Nam điều khiển xe mô tô của anh Tuấn về nhà mình ở xóm Xuân Hùng, xã H, thành phố Vinh nghỉ ngơi. Trong khi đổ xăng xe mô tô, Nam phát hiện thấy bên trong cốp xe có 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 (một) căn cước công dân, đều ghi tên Nguyễn Anh T. Sáng ngày 07/12/2022, do không có tiền tiêu xài nên Nam nảy sinh ý định bán xe mô tô của anh Tuấn để lấy tiền. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, Nam đi xe mô tô của anh Tuấn đến cửa hàng mua bán xe máy Quốc Vương ở số 06, đường Lý Thường Kiệt thuộc phường L, thành phố Vinh bán cho chị Lê Thị Thu T (sinh ngày 26/5/997, chủ cửa hàng) lấy số tiền 16.000.000 đồng (mười sáu triệu đồng). Khi bán xe, Nam nói với chị Thủy xe mô tô là của anh Tuấn, anh Tuấn nhờ Nam bán xe. Nam đưa 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và 01 (một) căn cước công dân, đều ghi tên Nguyễn Anh T cho chị Thủy xem. (Chị Thủy không biết đó là tài sản do Nam phạm tội mà có). Sau khi nhận tiền, Nam lấy lại căn cước công dân của anh Tuấn rồi đi về. Số tiền bán xe 16.000.000 đồng (mười sáu triệu đồng), Nam sử dụng để chơi điện tử và tiêu xài cá nhân hết. Do không có tiền chuộc lại xe mô tô, sợ bị anh Tuấn tố giác hành vi phạm tội của mình, Nam đi ra thành phố Hà Nội làm thêm và không liên lạc gì với anh Tuấn. Ngày 30/12/2022, anh Tuấn đã viết đơn tố giác hành vi phạm tội của Nam đến Công an phường Quán Bàu, thành phố Vinh. Ngày 02/01/2023, sau khi làm việc với Công an phường Quán Bàu, thành phố Vinh, chị Thủy đã giao nộp 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu xanh bạc, biển số 37M1 977.10 và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô ghi tên Nguyễn Anh T. Ngày 22/5/2023, biết Cơ quan Công an đang điều tra và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên Nam đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh đầu thú.
Tại Kết luận định giá tài sản số 07/KL-ĐGTS ngày 11/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Vinh kết luận: “01 (một) xe mô tô, nhãn hiệu Honda, số loại: Wave alpha, số máy: JA39E2860847, số khung: RLHJA3920NY435696, màu sơn: xanh bạc, biển số: 37M1-977.10, đăng ký lần đầu ngày 18/10/2022, xe đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 07/12/2022 trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An có trị giá 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng)”.
Tại bản cáo trạng số 266/CT-VKS-TPV ngày 14/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã truy tố Đặng Hoàng N về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 175; điểm i, s khoản 1, 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đặng Hoàng N từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo thử thách 24 đến 30 tháng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Buộc bị cáo trả lại cho chị Lê Thị Thu T số tiền 16.000.000 đồng. Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST và DSST theo quy định pháp luật.
Bị cáo không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy, có cơ sở để kết luận: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 05/12/2022, tại ngã tư giao nhau giữa đường Ngư Hải và đường Quang Trung ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Đặng Hoàng N đã mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda số loại Wave alpha, biển số 37M1 977.10 trị giá 16.000.000 đồng (mười sáu triệu đồng) của anh Nguyễn Anh T để sử dụng. Đến khoảng 11 giờ ngày 07/12/2022, do thiếu tiền chơi điện tử, Nam đã bán xe mô tô lấy 16.000.000 đồng (mười sáu triệu đồng) tiêu xài cá nhân hết. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2.2] Xét tính chât vụ án: Tội phạm thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người bị hại được pháp luật bảo vệ. Vì vậy cần xử phạt nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.
[2.3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, vì vậy việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội là chưa cần thiết mà chỉ cần xử cho hưởng án treo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là đủ nghiêm và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[2.4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo hiện lao động tự do, công việc không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[3]. Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị Thu T yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 16.000.000 đồng và bị cáo cũng chấp nhận bồi thường cho chị Thủy. Đây là yêu cầu chính đáng và buộc bị cáo phải trả cho chị Thủy số tiền trên.
[4] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Đặng Hoàng N phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ vào khoản 1 điều 175; điểm i, s khoản 1, 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Đặng Hoàng N 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/8/2023). Giao bị cáo cho UBND xã H, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Về bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015, buộc bị cáo Đặng Hoàng N phải bồi thường cho chị Lê Thị Thu T số tiền 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng).
Sau khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày những người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án số tiền bồi thường nêu trên nếu bị cáo không thanh toán khoản tiền đã tuyên thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Về án phí: Căn cứ vào điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Đặng Hoàng N phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST và 800.000 đồng án phí DSST.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ/.
Nơi nhận: - VKS,THADS TP Vinh; - Công an TP Vinh; - VKSND tỉnh Nghệ An; - Những người tham gia tố tụng; - Sở tư pháp tỉnh Nghệ An; - UBND nơi bị cáo cư trú (để biết); - Lưu HS. |
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Hồ Hòa |
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!