Bản án số 87/2025/DS-PT ngày 07/08/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 87/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 87/2025/DS-PT ngày 07/08/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Phú Thọ
Số hiệu: 87/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tại phiên tòa các đương sự đã tự nguyện thoả thuận giải quyết toàn bộ vụ án
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Quang Tuấn
Các Thẩm phán: Ông Vũ Văn Túc
Hoàng Ngọc Liễu
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Vân Anh - Thư ký TAND tỉnh Phú Thọ
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên toà:
Ông Hoàng Xuân Tân - Kiểm sát viên.
Ngày 07/8/2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ - sở 3, đã
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 29/2025/TLPT DS ngày 19
tháng 5 năm 2025 về việc “Kiện đòi tài sản”
Do có kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H đối với bản án dân sự
thẩm số 04/2025/DS-ST ngày 04 tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (nay là Tòa án nhân dân khu vực 13- Phú Thọ).
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2025/QĐ - PT ngày 11 tháng 7
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nghiêm Thị T - sinh năm 1962; HKTT: thôn Đ, N,
huyện L, tỉnh Hòa Bình. nay là xã L, tỉnh Phú Thọ, (có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1957; HKTT: thôn Đ, N,
huyện L, tỉnh Hòa Bình. nay là xã L, tỉnh Phú Thọ, (có mặt)
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị Thu T1, sinh năm 1991; HKTT: thôn Đ, N, huyện
L, tỉnh Hòa Bình. Nay là xã L, tỉnh Phú Thọ. (có mặt)
2. Nguyễn Thị Y, sinh năm 1959; địa chỉ: số C, đường Q, phường L,
quận H, thành phố Nội. Nay là: Số C, đường Q, Phường H, Quận H, Thành
phố Hà Nội Hà Nội (đề nghị xét vắng mặt);
3. Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1987; địa chỉ: số I, phố L, phường Q,
quận H, thành phố Hà Nội. Nay là Số I, phố L, phường H, quận H, TP . (đề nghị
xử vắng mặt)
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ THỌ
Bản án số: 87 /2025/DS - PT
Ngày: 07- 8-2025
V/v: Kiện đòi tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
4. Anh Nguyễn Văn S1, sinh năm 1989; địa chỉ: số C, đường Q, phường
L, quận H, thành phố Nội. Nay là: Số C, đường Q, Phường H, Quận H,
Thành phố Hà Nội Hà Nội (đề nghị xử vắng mặt)
Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ, vụ án được tóm tắt như sau:
1. Bà Nghiêm Thị Tông Nguyễn Văn H chung sống như vợ chồng với
nhau từ năm 1990. Việc chung sống của ông, bà được sự đồng ý của hai bên gia
đình nhưng từ đó tới nay chưa đăng kết hôn theo quy định của pháp luật.
Năm 1991, ông bà có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Thu T1 (hiện đã trưởng
thành, đã lấy chồng và sống riêng).
Từ khi làm giấy tờ khai sinh cho con, T đã xin chính quyền xã cho
chuyển khẩu vđịa phương. Năm 1994 được chia ruộng đất, ông H lên Hợp
tác khai khẩu xin ruộng đất để canh tác. UBND huyện L đã cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho ông H ngày 20/6/1998.
Đến năm 2022-2023, khi Nhà nước thu hồi đất ruộng làm khu công
nghiệp N đền cho dân. chị T1 đã trao đổi với ông H để thoả thuận
chia tiền đền theo khẩu sao cho hợp đảm bảo quyền lợi cho đôi bên.
Ban đầu ông H tuyên bố không cho mcon một đồng nào, vì ông H
không có đăng ký kết hôn nên không có quyền lợi.
Sau khi làm đơn lên Ủy ban nhân dân G, ông H đồng ý thoả thuận
chia cho 2 số tiền đền bù (Biên bản hòa giải bút lục 07-08). Nhưng đến sau
ngày 05/4/2023 vẫn chưa nhận được tiền từ ông H. Khi đó ông H đã nhận
được số tiền khoảng 233.980.000đ số tiền đền đợt 1 từ Trung tâm phát triển
quỹ đất. Đến ngày 23/6/2023 Trung tâm phát triển quỹ đất Ủy ban nhân dân
xG tiếp tục chi trả tiền đền đợt 2 với số tiền 497.069.368đ nhưng ông H vẫn
không trả cho số tiền đền đợt 2. Đến ngày 30/6/2023 mới nhận được
2/5 số tiền đền bù giải phóng mặt bằng đợt 1 với số tiền là 93.052.000đ. Còn số
tiền đền bù giải phóng mặt đợt 2 ông H đã nhận nhưng chưa trả cho mẹ con bà.
Quá trình giải quyết ván Nghiêm ThT đnghị Toà án giải quyết
buộc ông H phải trả cho bà và con gái là chị Nguyễn Thị Thu T1 2/3 số tiền đền
đợt 2 cụ thể 497.069.368 đồng/ 3 người = 165.689.789 đồng/ người x 2
người = 331.379.578 đồng. Đối với diện tích còn lại chưa bị thu hồi là 658m
2
cũng chia ba phần, mỗi phần 213m
2
x 2 người (= 426m
2
). Tại phiên toà bà T đề
nghị buộc ông H trả cho bà 1 số tiền đền bù đợt 2 lần 2 với số tiền
165.689.789đ (một trăm sáu mươi lăm triệu, sáu trăm tám mươi chín nghìn, bảy
trăm tám chín) đồng.
Theo đơn đề nghị ngày 23/4/2024 Nghiêm Thị T đã rút yêu cầu khởi
kiện về việc chia 658m
2
đất còn lại chưa bị thu hồi thành ba phần.
2. Ông H xác nhận ông và T chung sống với nhau như vợ chồng, thời
điểm chung sống từ năm 1992, với nhau một con chung Nguyễn Thị Thu
3
T1, sinh năm 1992 nhưng khai sinh năm 1991, quá trình chung sống không thực
hiện việc đăng kết hôn theo quy định của pháp luật. Trước khi chung sống
với T, ông đã sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị Y từ năm 1986
cũng hai con chung Nguyễn Thị S, sinh năm 1987 Nguyễn Văn S1,
sinh năm 1989 giữa ông Y cũng không thực hiện việc đăng kết hôn
theo quy định của pháp luật. Gia đình ông lúc đó 4 khẩu được Nhà nước
chia đất nông nghiệp tthời điểm đó. Do cuộc sống không ổn định nên ông
bà Y thường xuyên sống xa nhau, năm 1992 ông gặp T sống chung cùng
bà T, bản thân bà T không thể chuyển khẩu về địa phương vì trước đó T cũng
một đời chồng chưa ly hôn. Năm 2006, ông H nộp phạt xin chính
quyền địa phương nhập khẩu cho con gái là cháu T1 đi học cấp 3 nên mới có sổ
hộ khẩu gồm 03 nhân khẩu gồm ông H, bà T và con Nguyễn Thị Thùy T2. Việc
đền đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp N tính theo nhân khẩu
của hộ khẩu cũ, bản thân T cháu T2 không được cấp đất. Nhà nước cấp
theo nhân khẩu không có chuyện xin thêm đất. Ông là người sử dụng đất và nộp
nghĩa vụ với Nhà nước hằng năm.
Ông H không đồng ý với quan điểm khởi kiện của T số đất nông
nghiệp và số tiền đền bù không liên quan đến bà T và cháu T2.
3. Tại Bản án dân sự thẩm số 04/2025/DS ST ngày 04/4/2025 Tòa án
nhân dân huyện Lương Sơn đã xử: Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 218,
Điều 219, Điều 244, Điều 273, Điều 159, Điều 160, Điều 161, Điều 162 Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ Điều 207, Điều 209, Điều 218, Điều 219 Bộ luật dân sự; tuyên xử:
"1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nghiêm Thị T. Buộc ông Nguyễn
Văn H phải trả cho Nghiêm Thị T stiền 165.689.789đ (Một trăm sáu mươi
lăm triệu, sáu trăm tám mươi chín nghìn, bảy trăm tám chín đồng).
2. Đình chỉ yêu cầu của Nghiêm Thị T về việc chia diện tích đất chưa
bị thu hồi là 658m
2
."
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, việc thi hành án, quyền kháng cáo.
Ngày 08/4/2025 ông Nguyễn Văn H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, bị đơn giữ nguyên đã kháng cáo, tại phiên tòa các đương sự: Nguyên đơn
Nghiêm Thị T, bị đơn ông Nguyễn Văn H người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan chị Nguyễn Thị Thu T1 đã tự nguyện thoả thuận giải quyết toàn bộ vụ
án như sau:
1. Án thẩm đã quyết định: Buộc ông Nguyễn Văn H phải trả cho
Nghiêm Thị T số tiền 165.689.789đ (Một trăm sáu mươi lăm triệu, sáu trăm
tám mươi chín nghìn, bảy trăm tám chín đồng). Nay thống nhất ông Nguyễn
Văn H phải trả cho Nghiêm Thị T stiền 150.000.000 (Một trăm năm mươi
triệu đồng)
2. Các nội dung khác giữ nguyên như bản án sơ thẩm.
4
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư phiên tòa của người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự giai đoạn phúc thẩm được thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết
vụ án thoả thuận của họ tnguyện, không vi phạm điều cấm của luật
không trái đạo đức hội. Căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án
thẩm số 04/2025/DS-ST ngày 04 tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (nay Tòa án nhân dân khu vực 13 - Phú Thọ),
công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Căn cứ c chứng cứ, i liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, n cứ kết
quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ tòa diện chứng cứ, ý kiến của các bên
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định bị đơn có đơn kháng cáo
hợp lệ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Người kháng cáo, người không kháng cáo nhưng quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến việc kháng cáo và những người tham gia tố tụng khác đã được
Tòa án triệu tập hợp lệ. Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều
296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung vụ án:
2.1. Căn cứ vào tài liệu, chúng cứ trong hồ vụ án, vào Luật Đất đai
năm 1993 Nghị định 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 về việc ban hành quy định
về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, nhân sử dụng ổn định lâu dài
vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Do nhu cầu về sử dụng đất nông nghiệp
nên ngày 07/3/1998 ông H lúc này đang chung sống vchồng với T đã thực
hiện việc đăng quyền sdụng đất nông nghiệp, UBND G xác nhận với
nội dung nhất trí cấp theo đơn đăng hộ ông H, đến ngày 20/6/1998, UBND
huyện L, tỉnh Hòa Bình đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp
mang tên ông H.
2. 2. Xác định stiền tiền (497.069.268đ) bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp đợt 2 lần 2 (Theo quyết định số 1014/-UBND ngày
16/6/2023 của UBND huyện L về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ,
dự toán chi phí phục vụ công tác giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất
để thực hiện dự án Đầu xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công
nghiệp N) tài sản chung theo phần. Ông H đã nhận tổng số tiền bồi thường
trên (theo phiếu chi ngày 23/6/2023 của Trung tâm phát triển quỹ đất huyện L)
nhưng không trả cho T không đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của
5
T. Tòa án cấp thm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nghiêm Thị T buộc
ông Nguyễn Văn H phải trả cho bà T số tiền là đúng quy định.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm (ngày 07/8/2025), các đương sự trong vụ án:
Nguyên đơn bà Nghiêm Thị T, bị đơn ông Nguyễn Văn H và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Thu T1 đã tự nguyện thoả thuận giải quyết
toàn bộ vụ án với nội dung:
3.1. Án thẩm đã quyết định buộc ông Nguyễn Văn H phải trả cho
Nghiêm Thị T số tiền 165.689.789đ, nay thỏa thuận ông Nguyễn Văn H phải trả
cho bà Nghiêm Thị T số tiền 150.000.000 (Một trăm năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật hoặc ktừ ngày đơn yêu cầu
thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, người phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
3.2. Hội đồng xét xử nhận thấy: Thoả thuận của các đương sự tự
nguyện, đúng pháp luật, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức
hội. Căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng
xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án thẩm số 04/2025 /DS-ST
ngày 04 tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa
Bình (nay Tòa án nhân dân khu vực 13- Phú Thọ), công nhận sự thoả thuận
của các đương sự.
[4]. Những phần bản án thẩm, quyết định của Tòa án cấp thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật
kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5]. Ông H là người cao tuổi được miễn tiến án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 300, khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự:
Sửa bản án thẩm s04/2025/DS-ST ngày 04 tháng 4 năm 2025 của
Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (nay là Tòa án nhân dân khu
vực 13 - Phú Thọ), công nhận sự thoả thuận của các đương sự, cụ thể:
Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 218, Điều 219, Điều 244,
Điều 273, Điều 159, Điều 160, Điều 161, Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; Căn cứ vào Điều 16 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Căn cứ vào
Điều 207, Điều 209, Điều 218, Điều 219 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự , điểm đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ G,
tuyên xử:
1. Đình chỉ yêu cầu của Nghiêm Thị T về việc chia diện tích đất chưa
bị thu hồi là 658m
2
.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nghiêm Thị T.
6
Buộc ông Nguyễn Văn H phải trả cho Nghiêm Thị T số tiền
150.000.000 (Một trăm năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày đơn yêu cầu
thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, người phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự
thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 9 Luật thi hành án
dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
3. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn H đã nộp tiền tạm ứng chi phí tố
tụng số tiền 10.000.00 (tổng chi 7.820.000đ, ông H đã được trả lại
2.180.000đ)
4. Về án phí: Ông Nguyễn Văn H được miễn án phí dân sự sơ thẩm, phúc
thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 07/8/2025
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Phú Thọ;
- TAND khu vực 13- Phú Thọ;
- VKSND khu vực 13- Phú Thọ;
- Phòng THA khu vực 13- Phú Thọ
- Các đương Sự;
- Lưu;
TM HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Quang Tuấn
Tải về
Bản án số 87/2025/DS-PT Bản án số 87/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 87/2025/DS-PT Bản án số 87/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất